Ảnh minh họa
Trừ trường hợp chỉ duy nhất một người Nhập sai ký tự hộ tịch, bé sắp thôi nôi vẫn chưa có mã số định danh và bảo hiểm y tếĐỌC NGAY
Chị N. (ngụ TP.HCM) thừa kế thế vị một phần di sản từ bà ngoại (mẹ chị qua đời trước bà cụ), nhưng không có giấy khai sinh của mẹ mình vì bà sinh từ năm 1955 tại một tỉnh khác.
Chị N. liên hệ từ UBND phường đến phòng tư pháp huyện và sở tư pháp tỉnh bạn, đều được trả lời là không thể cấp bản sao giấy khai sinh của mẹ chị N.
Chưa kể giấy khai sinh của bà ngoại chị N. và giấy khai tử của ông bà cố ngoại của chị thì không biết xin cấp ở đâu, vì đa số các cụ sinh từ những năm 1900 - 1945 ở miền Nam, nhiều địa phương không còn lưu giữ sổ bộ hộ tịch và hồ sơ bản án thế vì khai sinh từ thời thuộc Pháp…
Một "nghịch cảnh" khác trong việc khai nhận di sản thừa kế là sai sót về họ, tên của người để lại di sản.
Một gia đình ở huyện Bình Chánh có cha mẹ qua đời đã lâu, nhưng chưa thể làm thủ tục phân chia di sản vì trong giấy khai sinh của một trong các con, bà mẹ đã khai một cái tên khác với giấy tờ hợp pháp của mình.
Để không rơi vào cảnh éo le trên, người dân cần kiểm tra lại giấy tờ hộ tịch của các thành viên lớn tuổi trong gia đình mình sinh trước năm 1975 tại miền Nam.
Nếu không còn giấy khai sinh thì các cụ có thể làm thủ tục đăng ký lại khai sinh tại UBND cấp xã nơi mình thường trú.
Thất thoát hoặc "đóng băng" di sản
Tại Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
Trường hợp di chúc không chỉ định và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.
Điều 617 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nghĩa vụ của người quản lý di sản: lập danh mục di sản; bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản...
Hiện nay rất hiếm có trường hợp các đồng thừa kế thỏa thuận lập văn bản cử người quản lý di sản. Và cũng rất hiếm trường hợp di sản của người chết được thống kê đầy đủ, cả bất động sản lẫn động sản, kể cả tiền, vàng, đá quý, cổ vật…
Do đó, dễ dẫn đến thất thoát một phần di sản của người chết để lại.
Mặt khác, theo Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm (đối với bất động sản), 10 năm (đối với động sản), kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Quả thật 30 năm đối với bất động sản là quá dài để các đồng thừa kế kiện yêu cầu chia di sản. Trong thời gian đó, bất động sản không thể mua bán, chuyển nhượng, góp vốn…
Nếu là đồng thừa kế không giữ di sản thì phải kiện ra tòa để yêu cầu chia di sản, trong khi người giữ di sản lại được lợi và có thể được hưởng trọn di sản nếu quá thời hiệu mà các đồng thừa kế khác không khởi kiện yêu cầu chia thừa kế.
Đây là điều không công bằng đối với các đồng thừa kế khác.
Thiết nghĩ cần xây dựng cơ chế thành lập cơ quan hoặc đơn vị có thẩm quyền chủ động giải quyết chia di sản thừa kế trong vòng 1 - 2 năm sau khi người chết để lại di sản, nhằm giảm bớt việc cho tòa án trong giải quyết tranh chấp di sản thừa kế; khắc phục tình trạng thời hiệu phân chia hoặc tranh chấp di sản kéo dài quá lâu như hiện nay.
Khi đó, các đồng thừa kế cũng thuận lợi hơn trong việc sang tên phần di sản của mình và sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
Thay di chúc chung vợ chồng bằng di chúc khác
Theo Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2005, vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 1-1-2017) không còn quy định về di chúc chung vợ chồng, riêng những di chúc chung vợ chồng đã lập trước khi bộ luật này có hiệu lực vẫn tiếp tục có hiệu lực.
Hiện nay có một số vụ di chúc chung vợ chồng đang bị vướng, không thể khai nhận di sản khi một người qua đời trước. Bởi vì Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết".
Có trường hợp người vợ qua đời đã nhiều năm, nhưng căn nhà của hai vợ chồng vẫn phải… để yên đó, người chồng và các con không thể khai nhận di sản vì chưa đến thời điểm mở thừa kế đối với phần di sản của người vợ.
Việc sửa đổi di chúc chung vợ chồng đã được công chứng hiện nay cũng bất khả thi vì không còn đủ cả hai vợ chồng để quyết định việc sửa đổi đó.
Vì vậy, những trường hợp đã lập di chúc chung vợ chồng mà cả hai đều còn sống thì nên làm thủ tục hủy hoặc thay di chúc chung vợ chồng bằng di chúc khác để tránh cảnh di sản của người vợ hoặc người chồng chết trước bị "đóng băng".
Link nội dung: https://doanhnghiepvaphattrien.com/tran-ai-nhu-chia-di-san-thua-ke-a156328.html