Cải cách thể chế là công việc cả đời, không có điểm dừng
Tham luận tại toạ đàm "Tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp" do Tạp chí Đời sống và Pháp luật/Tạp chí điện tử Người Đưa Tin tổ chức sáng 25/9 với chủ đề "Cải cách thể chế: Nhận diện điểm nghẽn pháp lý và cơ chế cải cách bền vững", TS. Phan Đức Hiếu – Uỷ viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ĐBQH khoá XV cho biết, chúng ta đã có đầy đủ các chủ trương, nhưng vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 thực sự được triển khai một cách đầy đủ, thực chất và đúng với tinh thần của hai nghị quyết này - đây chính là điều vô cùng quan trọng.
Chủ đề của toạ đàm là tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý, vậy cần phải nhận diện các điểm nghẽn pháp lý như thế nào và tiêu chí gì để nhận diện những điểm nghẽn đó?
Theo ĐBQH Phan Đức Hiếu, câu chuyện của cải cách thể chế chính là thực thi. Việc thực thi Nghị quyết 66, Nghị quyết 68 không phải là việc có thể hoàn thành trong vòng một, hai năm mà đó là câu chuyện của cả đời, có nghĩa là cải cách thể chế là một công việc phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc.
Ông đặt ra câu hỏi: "Vậy thì đâu là cơ chế bền vững và động lực nào để làm cho việc này có thể diễn ra thường xuyên, liên tục?".
TS. Phan Đức Hiếu – Uỷ viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trình bày tham luận tại toạ đàm.
Theo ông Hiếu, chủ trương của Nghị quyết 68 và Nghị quyết 198 đã rất rõ ràng, rất mạnh mẽ và rất quyết liệt trong việc tạo dựng một môi trường thể chế dễ dàng, minh bạch, công bằng, thuận lợi và thúc đẩy sự phát triển sản xuất, kinh doanh.
Đồng thời, các nghị quyết này đã đưa ra những chỉ tiêu tối thiểu như cắt giảm ít nhất 30% chi phí hay thủ tục hành chính, với mong muốn loại bỏ toàn bộ những thủ tục được coi là rào cản.
Ông Hiếu nêu vấn đề: "Bây giờ nhận diện như thế nào để cho các điểm nghẽn thể chế được đầy đủ và toàn diện?" Để minh hoạ, ông đưa ra ví dụ tại Điều 108, Nghị định 125/2024 về điều kiện cho phép hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục.
Quy định này yêu cầu tổ chức kiểm định phải có trụ sở hoạt động ổn định, bảo đảm diện tích làm việc tối thiểu là 8 m2 cho mỗi người; có đủ trang thiết bị phục vụ hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục; có nguồn lực tài chính để bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động trong thời gian ít nhất 2 năm kể từ ngày được cho phép hoạt động; có ít nhất 10 kiểm định viên cơ hữu làm việc toàn thời gian theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc tối thiểu từ 12 tháng trở lên cho tổ chức kiểm định và có kinh nghiệm tham gia hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục trong thời gian từ 5 năm trở lên. Vậy thì đâu là điểm nghẽn pháp lý?
Từ kinh nghiệm trong quá trình tham mưu xây dựng chính sách, phản biện chính sách và nay là với vai trò có chức năng thông qua chính sách, ông Hiếu nhận thấy rằng một quy định pháp lý là cần thiết và có mục tiêu quản lý.
Tuy nhiên, mặt trái của nó là nếu một quy định được thiết kế không tốt thì sẽ tạo ra những tác động không mong muốn, có nguy cơ gây ra năm hệ quả bất lợi đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Tác động đầu tiên là làm tăng chi phí. Tác động thứ hai là gây ra rủi ro cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tác động thứ ba là hạn chế sự sáng tạo, đổi mới trong mô hình và phương thức kinh doanh nếu quy định được thiết kế quá cứng nhắc. Tác động thứ tư là hạn chế cạnh tranh. Và tác động cuối cùng là gây bất lợi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi phân tích sâu hơn về tác động làm gia tăng chi phí, ông Hiếu gọi đó là chi phí tuân thủ pháp luật. Một quy định pháp luật có thể khiến doanh nghiệp phát sinh năm loại chi phí.
Toàn cảnh toạ đàm "Tháo gỡ điểm nghẽn pháp lý tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp".
Thứ nhất là chi phí về thời gian và công sức mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện thủ tục hành chính.
Ông đưa ví dụ: một doanh nghiệp có thể phải thuê đến 3 – 4 người để xử lý các vấn đề liên quan đến báo cáo thuế nếu thủ tục phức tạp, trong khi nếu thủ tục đơn giản, chỉ cần 1 người có thể làm cho 3 doanh nghiệp thì chi phí sẽ hoàn toàn khác. Thậm chí, có doanh nghiệp phải bố trí cả phòng thuế, phòng kế toán với 10 đến 15 nhân sự, dẫn đến chi phí nhân lực rất lớn.
Thứ hai là phí và lệ phí. Theo ông Hiếu, có những loại phí và lệ phí được tính theo giá trị tài sản, dẫn đến khoản chi phí rất lớn.
Việc cấp giấy phép theo giá trị, hay kiểm định một lô hàng nhập khẩu, đều kéo theo những khoản lệ phí đáng kể và tất cả những chi phí này đều được cộng dồn vào giá thành sản phẩm.
Thứ ba là chi phí đầu tư bằng tiền. Ông lấy ví dụ: khi thực hiện một dự án đầu tư, doanh nghiệp đã khó khăn trong việc vay vốn, nhưng vẫn còn phải vay thêm để ký quỹ; nếu không ký quỹ thì phải có bảo lãnh, khiến chi phí đội lên đáng kể.
Chi phí thứ tư là chi phí cơ hội. Sự chậm chạp trong việc thực hiện thủ tục hành chính có thể khiến doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Và cuối cùng là chi phí không chính thức, khi doanh nghiệp muốn thủ tục được giải quyết nhanh hơn, dù chỉ đơn giản là để thực hiện đúng quy định pháp luật, nhưng vẫn phải phát sinh thêm khoản chi phí ngoài.
Bên cạnh đó, nếu một quy định pháp luật không rõ ràng thì còn có thể gây ra rủi ro cho doanh nghiệp, thậm chí dẫn đến tranh chấp pháp lý. Doanh nghiệp, trong khi luôn nỗ lực để tuân thủ pháp luật, vẫn thường trực một tâm lý lo lắng rằng mình làm như vậy đã thực sự đúng luật hay chưa.
Ngoài ra, việc đặt ra các điều kiện về cơ sở vật chất, văn phòng, trang thiết bị hay quy trình tổ chức kinh doanh quá chi tiết cũng làm hạn chế sự năng động, sáng tạo. Có những ngành nghề bị ràng buộc bởi các tầng nấc phức tạp, ví dụ phải có tổng đại lý rồi mới được mở bán lẻ, khiến mô hình kinh doanh bị bó buộc.
Một hệ quả nữa là làm méo mó cạnh tranh. Nếu điều kiện kinh doanh quá khó khăn khiến doanh nghiệp mới không thể gia nhập thị trường thì điều đó trở thành rào cản, đồng thời vô tình bảo hộ cho những doanh nghiệp đang có vị thế độc quyền. Khi cùng áp dụng một điều kiện kinh doanh nhưng chi phí quá lớn, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng gặp bất lợi trong cạnh tranh.
Việt Nam đang thiếu cơ quan độc lập có chức năng giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế
"Vậy làm thế nào để cải cách thể chế trở thành một quá trình thường xuyên, liên tục và không có điểm dừng?", ông Hiếu đặt vấn đề.
Theo ông Hiếu, Việt Nam đã trải qua 3 hình thái cải cách. Năm 1999, Luật Doanh nghiệp được ban hành, tạo cú hích lớn cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Năm 2000 và 2005, chúng ta đã có quá trình cải cách đơn lẻ thông qua việc cắt bỏ hơn 150 loại giấy phép kinh doanh.
Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã có các nghị quyết mạnh mẽ về cải thiện môi trường kinh doanh và gần đây nhất là Nghị quyết 66 và 68, được ví như "bộ tứ" và "bộ lục" chiến lược. Như vậy, Việt Nam đã có đủ 3 trong bốn hình thái cải cách, nhưng vẫn chưa đạt được hình thái cải cách trở thành văn hoá.
TS. Phan Đức Hiếu cho rằng, cần cơ quan độc lập, đủ thẩm quyền giám sát, thúc đẩy cải cách thể chế.
Hiện nay, ở Việt Nam, vai trò cải cách thể chế quan trọng nhất vẫn chủ yếu dựa vào các bộ, ngành chủ động tự rà soát, tự đề xuất phương án bãi bỏ quy định.
Tuy nhiên, theo ông Hiếu, kinh nghiệm quốc tế cho thấy cải cách sẽ rất khó khăn nếu chỉ xuất phát từ nỗ lực đơn lẻ của các cơ quan thực thi pháp luật hoặc chỉ dựa vào chỉ đạo từ trên xuống của Chính phủ. Việt Nam hiện đang thiếu một cơ quan độc lập có chức năng giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế.
Trong khi đó, tại Hàn Quốc, Canada, Hoa Kỳ, Anh đều có những cơ quan được trao nhiệm vụ rất quan trọng, bổ sung một tầng kiểm soát nữa về chất lượng thể chế trước khi một dự thảo luật được ban hành.
Ông Hiếu phân tích rằng, cơ quan độc lập này trên thế giới thường có vai trò hết sức quan trọng nhờ đảm bảo tính chuyên môn, tính độc lập, phi lợi ích và tính bao trùm trong việc rà soát, đánh giá và nhận diện các điểm nghẽn thể chế.
Thậm chí, cơ quan này còn có thể chủ động xác định đâu là lĩnh vực ưu tiên, trọng tâm cần được cải cách để kiến nghị với Chính phủ. Nhìn ở tầm quốc gia, Việt Nam rất cần một cơ quan như vậy để tiến hành rà soát độc lập, khách quan.
Để các nghị quyết đi vào cuộc sống, ông Hiếu cho rằng có 2 thách thức lớn. Một là làm sao nhận diện đầy đủ các rào cản để kịp thời bãi bỏ. Hai là phải duy trì được động lực cải cách ít nhất trong vòng mười năm, tức là cần một cơ chế bền vững.
Ông đề xuất, trước hết, cần xây dựng một bộ tiêu chí rõ ràng để rà soát và bãi bỏ quy định pháp luật. Ông mong muốn bộ tiêu chí này phải được tài liệu hoá thành văn bản chính thức để tạo sự thống nhất trong nhận thức.
Bộ Tư pháp hoàn toàn có thể đảm nhận nhiệm vụ này và gửi cho tất cả các bộ, ngành để áp dụng. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành sẽ tiến hành rà soát và đồng loạt bãi bỏ ngay những quy định không cần thiết, ưu tiên loại bỏ trước để tạo ra chuyển biến nhanh chóng, còn những quy định cần chỉnh sửa thì xử lý dần. Chẳng hạn, điều kiện kinh doanh nào không còn phù hợp thì bỏ ngay, rất nhanh gọn.
Tiếp đến, ông Hiếu đề nghị Hội Luật gia Việt Nam cần chủ động hơn. Với chuyên môn của mình, Hội có thể tập hợp, rà soát và đưa ra danh mục các điều kiện kinh doanh, các quy định bất hợp lý để trình Chính phủ tham khảo. Đây sẽ là một kênh phản biện độc lập, thiết thực, góp phần thúc đẩy cải cách.
Cuối cùng, về cơ chế bền vững, ông Hiếu cho biết ông đã từng nhiều lần phát biểu tại Quốc hội và đến nay vẫn mong muốn Chính phủ tiếp tục duy trì động lực cải cách, để bảo đảm cải cách không chỉ dừng lại ở một giai đoạn nhất thời mà trở thành một dòng chảy lâu dài và thường trực.
Link nội dung: https://doanhnghiepvaphattrien.com/can-co-quan-doc-lap-du-tham-quyen-giam-sat-thuc-day-cai-cach-the-che-a185823.html