
Tòa Huỳnh Vinh Viễn đường ở Sài Gòn, nay là Tòa nhà 1 của Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM - Ảnh: HÀ VIỆT HÙNG
Huỳnh Trọng Huấn - người đứng đầu gia tộc Hui-bon-Hoa
Con trai trưởng ông Hui Bon Hoa tên Huỳnh Trọng Mô, được người anh của ông Hoa tên Huỳnh Văn Bỉnh nhận nuôi.
Ông Trọng Mô có tên tự là Bá Đồ. Đây là điều đúng thể thức: chữ Bá trong tên tự chỉ dành cho con trưởng, còn Đồ trong cơ đồ và Mô (mưu định) gần nghĩa nhau.
Tuy có tác giả viết rằng lúc trẻ ông Trọng Mô từng sang Sài Gòn phụ giúp cha, nhưng chúng tôi chưa tìm được tư liệu nào ghi nhận tên ông trong các công việc của nhà họ Huỳnh tại Sài Gòn.
Rất có thể, theo hình thức pháp lý và đạo lý, ông Trọng Mô đã là con nuôi của ông Huỳnh Văn Bỉnh, nên ở lại quê nhà để lo việc thờ tự tổ tiên.
Rồi vì vậy ông Huỳnh Trọng Huấn là người em kế mới trở thành đầu tàu của gia tộc Hui-bon-Hoa tại Sài Gòn, khi người cha mất.
Các con trai của ông Hui Bon Hoa trong tên đều có bộ ngôn và lót bằng chữ Trọng, ghi kiểu Pháp là Tang. Những người cháu trai của ông, thế hệ Hui-bon-Hoa thứ ba tại Sài Gòn, trong tên đều có bộ mộc và lót bằng chữ Khánh, ghi kiểu Pháp là Khien.
Thế hệ thứ tư sẽ có tên lót là chữ Nguyên. Cách đặt tên này khớp với bài thơ dạng phả hệ thi do ông Huỳnh Trọng Huấn soạn: Khánh Nguyên Tích Thiện, Hòa Dĩ Trí Tường... (theo Chen Bichun), và điều đó càng cho thấy rõ vị thế là trưởng tộc tại Sài Gòn của ông.
Sớm tham gia vào các hoạt động kinh doanh của gia đình từ năm 1896, ông Trọng Huấn và Trọng Tán (rồi đến Trọng Bình) mới là những người về sau sẽ được nhắc nhiều bằng danh xưng Chú Hỏa.
Chúng tôi đã tìm hiểu văn bia tại nhà bia được đặt tên là Tư Tồn đình - ngôi nhà nhỏ với tâm tư để lại, nơi mộ ông Trọng Huấn ở gần núi Châu Thới, Bình Dương.
Theo đó ông có hiệu là Thiết Văn, sinh năm Bính Tý - triều Thanh Quang Tự, tức năm 1876. Ông mất năm Quý Tỵ là năm 1953. Có thể do bia ghi được khắc cuối năm Ất Mùi, tức cuối 1955 nên có những nhầm lẫn về năm mất của ông.
Bi ký cũng khẳng định gốc gác từ Hạ Môn, Hòa Sơn, Văn Tảo xã của nhà Hui-bon-Hoa, và nói rõ rằng vào thời Thanh Quang Tự (sau 1875) gia đình đã chuyển đến cư ngụ tại Tuyền Ấp tức Tuyền Châu.
Chính vì thế, khi soạn văn bia cho trùng tu Phúc Kiến nghĩa từ ở quận Phú Nhuận, năm 1916, ông Trọng Huấn đã ghi rằng mình là người Ôn Lăng - một tên cổ của Tuyền Châu.
Sau thời gian học hành và trưởng thành, đỗ tú tài, ông Trọng Huấn (và Trọng Tán) mới sang Sài Gòn với cha. Vinh Viễn là tên tự của ông Trọng Huấn. Viễn nghĩa là "sâu xa", gần với Huấn (giảng giải, dạy dỗ).
Về tên hiệu, cha ông là đá (Tình Nham) còn ông là sắt (Thiết Văn), thì đó cũng là ý trong truyền thống văn hóa Á Đông về sự nối tiếp các thế hệ, đều mong sự cứng cỏi không dễ bị khuất phục.
Về các bà vợ của ông, gồm bà chính thất họ Trang, khi bà mất thì ông có bà kế thất họ Vương, và có hai bà trắc thất (tức là thiếp, vợ lẽ) họ Dương và họ Bạch. Trừ bà họ Vương không có con, bi văn nhắc đến sáu con trai của ông với các bà vợ.
Sáu người con trai chính là những người được ghi tên ở tấm biển đá hiện vẫn còn gắn tại tòa dinh thự của ông Trọng Huấn ở Sài Gòn - Huỳnh Vinh Viễn đường, mà nay là Tòa nhà 1 lớn nhất và tráng lệ nhất của Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Ông và các bà có bốn người con gái, và còn một người con trai đã mất ở Hạ Môn, tên Khánh Dong.
Khi cha còn sống, Trọng Huấn và Trọng Tán đã tập sự đầu tư vào địa ốc, nhưng ngay ở quy mô lớn. Năm 1897, anh em nhà Hui Bon Hoa nộp đơn xin san lấp tại các lô đất của gia đình thuộc khu đầm lầy Boresse, Sài Gòn, với khối tích lên đến 70.000m3 (Công báo Đông Pháp 13-1-1898).
Giả sử trung bình tôn nền cao thêm 1m thì diện tích xin san lấp là 70.000m2, tương đương với diện tích của bốn ô tứ giác giới hạn bởi các đường Phó Đức Chính, Nguyễn Công Trứ, Ký Con cùng Lê Thị Hồng Gấm ngày nay (và phân chia bởi đường Calmette giao Nguyễn Thái Bình).
Rồi vào năm 1909, anh em nhà Hui Bon Hoa nộp nhiều đơn xin mua đấu giá đất công, với giá bỏ thầu là 1 piastre/m2 (ví dụ như ghi nhận tại Hồ sơ No 16, Phòng 2, biên bản họp Hội đồng Quản hạt Nam kỳ, 1910).
Ông Trọng Huấn có tham gia Phòng Thương mại Sài Gòn và cả Phòng Canh nông, năm 1909.

Nhà bia tại khu mộ gia tộc Hui-bon-Hoa ở Dĩ An, Bình Dương - Ảnh: HÀ VIỆT HÙNG
Đầu tư trở lại quê nhà Hạ Môn với vai trò thương gia - nho sĩ
Ham thích văn chương chứ không chỉ mê mải làm giàu và đã cực giàu, ông Trọng Huấn cùng người em kế là Trọng Tán được ghi nhận rằng từng trao đổi thi phú trong nhóm Thi xã Anh Cầu của người Hoa ở Sài Gòn vào hai thập kỷ đầu thế kỷ XX với ông Đặng Thúc Liêng.
Khoảng từ những năm 1915, Huỳnh Trọng Huấn về lại Hạ Môn để khuếch trương hoạt động kinh doanh địa ốc của gia tộc.
Nơi ông ở là Cổ Lãng Tự. Được xếp hạng Di sản văn hóa thế giới từ 2017, Cổ Lãng Tự trước kia là nơi cư ngụ và sinh hoạt của người phương Tây hay các Hoa kiều trở về từ hải ngoại, với những kiến trúc mang nét độc đáo đặc trưng, kết hợp các phong cách châu Âu với truyền thống Trung Hoa.
Ông Trọng Huấn có hai dinh thự đặt tên là Khám Thanh biệt thự, Tây Lâm biệt thự, hiện nay được dùng làm khu nhà tưởng niệm Trịnh Thành Công tức Duyên Bình vương, và tòa trụ sở công ty cũng tên Hoàng Vinh Viễn đường, nay dùng làm Bảo tàng - tương đương tòa Huỳnh Vinh Viễn đường tại Sài Gòn.
Công ty của Huỳnh Trọng Huấn có vốn là 1.200.000 đồng bạc. Đây là khoản tiền rất lớn thời bấy giờ. Mức vốn ấy xếp vào tốp đầu (nhóm 5) trong số các công ty của Hoa kiều gốc Phúc Kiến quay về quê nhà để đầu tư kinh doanh (thống kê ở giai đoạn 1927-1935).
Lân cận với ông có nhiều dinh thự, chẳng hạn của ông Lý Thanh Tuyền tức Dee Ching Chuan, "vua" ngành ngân hàng và khai thác gỗ ở Philippines, hay của ông Hoàng Dịch Trụ tức Oei Ik Tjoe, triệu phú ngành mía đường ở Java.
Những giao tiếp của các ông không chỉ tạo nền tảng cho hoạt động thương mại mà còn có thể đã dẫn đến những mối liên kết gia tộc về sau...
Bi văn về ông Trọng Huấn ghi nơi ông cư ngụ khi về Hạ Môn có lưu giữ "đồ thư vạn quyển", hằng ngày ông thường cùng "tao nhân mặc khách ẩm tửu phú thi".
Tác phẩm là thư pháp của Huỳnh Trọng Huấn đang còn hiện hữu tại nhiều nơi ở Cổ Lãng Tự (chạm trên các vách đá) và trở thành điểm nhấn thu hút du khách.
Tại Sài Gòn, hai bên cửa vào tòa dinh thự của ông cũng có đôi câu đối chữ Nho, mà Nguyễn Đông Triều dịch nghĩa: Vẻ đẹp văn chương lưu truyền tiếng thơm, tạo dựng cơ đồ sánh ngang trời biển - Cỏ chi màu tím nảy nở hoa tươi, xứng với cháu con vinh hiển muôn đời.
Mong muốn của ông Trọng Huấn là nêu ra, đề cao nề nếp gia phong, hàm ý sự phát triển của dòng tộc trước tiên dựa trên vốn liếng từ tri thức văn hóa rồi mới đến và kết hợp cùng gia sản (nhờ kinh doanh, mà chúng tôi nghĩ hẳn cũng phải qua cạnh tranh và mưu tính mới có được).
Khoảng sau năm 1940, ông Trọng Huấn quay lại với các công việc chính ở Sài Gòn cho tới khi qua đời.
Đáng chú ý, văn tự của bia tưởng niệm ông Trọng Huấn là do ông Đường Phú Ngôn viết. Đường Phú Ngôn người vùng Tư Hưng, Hồ Nam Trung Quốc, là người sáng lập và điều hành Trường trung học Tri Dụng ở Chợ Lớn.
Đây là trường tư thục tiếng Hoa rất nổi tiếng khi xưa, nay thành Trường trung học cơ sở Lý Phong. Ông là bạn đồng học với Tất Lỗi, Trương Thụy Quyền, Mao Trạch Đông...
***************
Trọng Tán cùng Trọng Huấn kế tục sự nghiệp của người cha.
Ngay từ năm 1898, nhà Hui-bon-Hoa đã rầm rộ xin phép xây cất các khu cư xá (để cho thuê) trên những khoảnh đất họ sở hữu ở khu vực vốn từng là đầm lầy Boresse.
>> Kỳ tới: Chú Hỏa- Huỳnh Trọng Tán và cơ nghiệp tại Sài Gòn
