Ngày 14/6, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Luật quy định hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026.
GIỮ QUY ĐỊNH CÔNG BỐ HỢP QUY
Trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua, thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy đã báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Về công bố hợp quy, ông Lê Quang Huy cho biết một số ý kiến đề nghị bỏ quy định về công bố hợp quy để giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, chi phí cho doanh nghiệp, tránh chồng chéo với các luật chuyên ngành, phù hợp thông lệ quốc tế, đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về chuyển dần từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Song ý kiến khác đề nghị không bãi bỏ, mà chỉ điều chỉnh nội dung, thủ tục công bố hợp quy theo hướng rà soát, cập nhật hệ thống tiêu chuẩn nhanh, hài hòa với quy chuẩn quốc tế; điện tử hoá quy trình công bố hợp quy.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết theo kinh nghiệm quốc tế, các nước trên thế giới tuy có sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như “công bố sự phù hợp”, “tự công bố sự phù hợp”, “công bố sản phẩm”, “công bố việc tuân thủ”.
Tuy nhiên, nội hàm đều là hành động tuyên bố, thông báo, cam kết của doanh nghiệp về sản phẩm, hàng hóa do mình cung cấp, phù hợp với các chỉ tiêu, yêu cầu kỹ thuật bắt buộc áp dụng do cơ quan nhà nước ban hành, nhất là đối với sản phẩm hàng hóa có rủi ro đối với sức khỏe con người, an toàn và môi trường.
Các dấu hiệu nhận biết như CE (châu Âu), hay dấu hiệu chứng nhận đối với thực phẩm, dược phẩm của FDA (Hoa Kỳ) về bản chất là dấu hiệu thể hiện việc đã công bố hợp quy, được gắn lên sản phẩm hàng hóa, để người tiêu dùng dễ nhận biết.
Theo quy định pháp luật hiện hành, thủ tục công bố hợp quy bao gồm hai bước: (i) Đánh giá sự phù hợp đối tượng của công bố hợp quy với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng lập hồ sơ công bố hợp quy; (ii) Đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ quan chuyên ngành do Bộ quản lý ngành, lĩnh vực và Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ định (cơ quan chuyên ngành).
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bản chất, đánh giá hợp quy là việc xác định sản phẩm hàng hóa có phù hợp với đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý quy định trong quy chuẩn kỹ thuật được áp dụng hay không.
Đây là bằng chứng khoa học, cơ sở pháp lý kỹ thuật để cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm hàng hóa; tạo niềm tin cho người tiêu dùng; phù hợp với yêu cầu cơ bản của các Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) kết quả đánh giá sự phù hợp trong khuôn khổ hợp tác APEC, ASEAN, EVFTA, CPTPP…
Đồng thời, quy định này cũng hoàn toàn phù hợp thông lệ quốc tế (tiêu chuẩn ISO 17050-1). Việc công bố hợp quy là biện pháp, công cụ cần thiết, quan trọng bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao thương hiệu của doanh nghiệp, không phải là thủ tục hành chính, không nên loại bỏ. Còn đăng ký đăng ký bản công bố hợp quy là thủ tục hành chính để thông báo với cơ quan quản lý.
GIẢM THIỂU THỦ TỤC HÀNH CHÍNH, CHI PHÍ CHO DOANH NGHIỆP
Để giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, để khắc phục phát sinh sự trùng lắp trong hoạt động đánh giá sự phù hợp, gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, cho biết dự thảo Luật đã quy định mở rộng việc sử dụng các kết quả đánh giá sự phù hợp làm cơ sở cho hoạt động công bố hợp quy.

Cùng với đó, miễn thực hiện công bố hợp quy đối với sản phẩm hàng hóa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu quản lý chất lượng theo quy định của pháp luật chuyên ngành, để doanh nghiệp chỉ tuân thủ một quy trình, thay vì phải thực hiện hai quy trình như hiện nay.
Đồng thời, để giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, chi phí cho doanh nghiệp, đẩy mạnh số hóa thủ tục đăng ký bản công bố hợp quy, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định về đăng ký hợp quy theo hướng tối giản. Tổ chức, cá nhân chỉ cần thông báo công bố hợp quy trên cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.
Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị rà soát, làm rõ nội hàm của quy định về việc công bố hợp quy dựa trên kết quả tự đánh giá của tổ chức, cá nhân; rà soát, làm rõ các thông tin mà các tổ chức, cá nhân cần cung cấp trên cơ sở dữ liệu quốc gia về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng khi thực hiện thủ tục công bố hợp chuẩn và công bố hợp quy để bảo đảm chặt chẽ, khả thi, tránh vướng mắc trong áp dụng pháp luật.
Về đề nghị rà soát, làm rõ nội hàm của quy định về việc công bố hợp quy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, việc quy định công bố hợp quy dựa trên kết quả tự đánh giá của tổ chức, cá nhân là một cơ chế pháp lý trong hoạt động đánh giá sự phù hợp.
Qua đó, cho phép tổ chức, cá nhân tự đánh giá và tự chịu trách nhiệm về việc sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường của mình phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, mà không bắt buộc phải có sự chứng nhận của bên thứ ba.
Tổ chức, cá nhân thực hiện tự đánh giá trên cơ sở hệ thống kiểm soát chất lượng nội bộ, kết quả thử nghiệm của tổ chức thử nghiệm (có thể là phòng thử nghiệm của chính doanh nghiệp) và chịu trách nhiệm toàn bộ về tính chính xác, trung thực của kết quả tự đánh giá và hệ quả pháp lý nếu có sai phạm.
Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế như Châu Âu, Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc… hiện đang áp dụng cho sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường có nguy cơ rủi ro trung bình, không áp dụng với các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường có nguy cơ rủi ro cao, bắt buộc phải có bên thứ ba chứng nhận.