Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm trực tuyến với chủ đề "Ổn định kinh tế vĩ mô và Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp" |
Năm 2022 và những tháng đầu năm 2023, chúng ta đã cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đã đề ra: Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, bảo đảm an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, an toàn, an dân, tăng cường đối ngoại và hội nhập. Trong điều kiện rất khó khăn, GDP quý I vẫn duy trì đà tăng trưởng. Những kết quả đạt được là rất đáng trân trọng trong bối cảnh trong và ngoài nước khó khăn, thách thức chưa từng có trong nhiều năm và khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi, nhiều vấn đề chưa từng có tiền lệ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng hành, giám sát của Quốc hội, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của người dân và doanh nghiệp, các chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ là xuyên suốt, đồng bộ, quyết liệt, kịp thời, phù hợp, thực chất, kiên định mục tiêu, nguyên tắc nhưng hết sức linh hoạt, bám sát thực tiễn, các diễn biến trong nước và thế giới, tạo những chuyển biến thực chất, cân đong đo đếm được trên các lĩnh vực được dư luận quan tâm thời gian qua, tạo chuyển biến bước đầu trong nhiều vấn đề tồn đọng, kéo dài nhiều năm; củng cố, tăng cường niềm tin xã hội, niềm tin thị trường bằng những giải pháp, chính sách, hành động cụ thể, hiệu quả để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp.
Mặc dù tình hình còn không ít khó khăn, nhưng nhiều chính sách, giải pháp điều hành đang phát huy tác động tích cực. Bước sang tháng 4 và tháng 5, tình hình có nhiều khởi sắc, nhiều lĩnh vực chuyển biến tích cực, khởi sắc, như vốn FDI đăng ký mới trong tháng 5 đã bật tăng mạnh, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) bước đầu có tín hiệu tốt trong tháng 4… Các tổ chức quốc tế uy tín tiếp tục đánh giá và dự báo tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2023 và thời gian tới.
Việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp nhận được nhiều sự quan tâm trong thời gian qua, bởi thị trường này nắm giữ nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Mỗi biến động, dù là nhỏ của thị trường, cũng có tác động không nhỏ tới nền kinh tế và phát triển bền vững thị trường này cũng là kênh huy động vốn từ nhân dân cho nền kinh tế ngoài các kênh truyền thống, là việc quan trọng cần làm.
Nửa cuối năm 2022, thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ chứng kiến "cú sốc" tâm lý lan rộng khi nhà đầu tư thường xuyên thấy nhiều vụ việc bị các cơ quan chức năng xử lý. Niềm tin suy giảm kết hợp với thanh khoản dòng tiền trả nợ trái phiếu của nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn đã khiến thị trường này gia tăng rủi ro.
Các khách mời tham dự Tọa đàm (từ trái sang): GS.TS. Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế Quốc dân; Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương; TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội - Ảnh: VGP/Quang Thương |
Để hỗ trợ thị trường và doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan quản lý đã có nhiều quyết định quan trọng để ổn định thị trường, đưa thị trường hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật, góp sức cho nền kinh tế và quan trọng là khơi dậy niềm tin của người dân với thị trường này để nó phát triển bền vững. Không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp mà mục tiêu quan trọng hơn là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh rất cần nguồn lực để phục hồi sau đại dịch. Mặc dù chưa phát triển như mong muốn nhưng thị trường cũng đã có những tín hiệu tích cực. Chặng đường phía trước còn dài, còn nhiều khó khăn, vướng mắc, thử thách phải vượt qua, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực hơn, quyết liệt hơn trong triển khai các biện pháp "phá băng" cho thị trường.
Để có thêm góc nhìn về vấn đề này, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức Tọa đàm trực tuyến với chủ đề "Ổn định kinh tế vĩ mô và Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp".
Tham dự tọa đàm có các vị khách mời:
1. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương
2. Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi
3. GS.TS. Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế Quốc dân
4. PGS.TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (trả lời trực tuyến từ Singapore)
TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, điều phối nội dung Tọa đàm. Tọa đàm được TỔNG THUẬT trực tiếp trên Cổng TTĐT Chính phủ và các nền tảng của Cổng TTĐT Chính phủ.
Hoàn toàn có cơ sở tin tưởng sự điều hành để đạt mục tiêu đề ra
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Hiện nay, tình hình thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề phát sinh chưa có tiền lệ, vượt khỏi dự báo. Nhiều thách thức đặt ra cho các nước như suy thoái kinh tế, gia tăng lạm phát, mất an ninh năng lượng, an ninh lương thực toàn cầu… Các yếu tố bên ngoài, môi trường quốc tế ảnh hưởng thế nào tới nỗ lực ổn định kinh tế vĩ mô của chúng ta? Xin các ông đánh giá thế nào về những thành tựu về kinh tế, nhất là kinh tế vĩ mô chúng ta đã đạt được trong thời gian vừa qua? Xin các ông có thể so sánh với các nước trong khu vực?
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương: Trong bối cảnh khó khăn, kết quả điều hành kinh tế vĩ mô và tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nước ta vẫn đạt được kết quả đáng khích lệ - Ảnh: VGP/Quang Thương |
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương: Qua thực tế diễn ra, có thể gói gọn về bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới năm 2022, những tháng đầu năm 2023 như sau: Khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi; biến động nhanh; rất khó lường, khó dự báo, có những thực tiễn xảy ra còn vượt quá dự báo và độ phức tạp của tình hình thế giới tác động đến các nền kinh tế.
Nền kinh tế nước ta có quy mô còn khiêm tốn trong khi độ mở lớn (gần 2 lần so với GDP). Như vậy, sự tác động của ngoại cảnh đối với kinh tế nước ta rất lớn. Cuối năm 2021 và năm 2022, chúng ta kỳ vọng là sau khi vượt qua dịch COVID-19, các nền kinh tế sẽ đến thời kỳ phục hồi mạnh mẽ. Tuy nhiên, thực tiễn không như dự báo, thậm chí có những yếu tố như những cuộc xung đột chính trị, tài chính - tiền tệ… đã làm chậm đi quá trình phục hồi, thậm chí đẩy nền kinh tế đến nguy cơ suy thoái.
Một số nhân tố trên thế giới ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế vĩ mô của các nước, trong đó yếu tố lạm phát là yếu tố lớn, xuất phát từ Mỹ, châu Âu, tác động lan toả trên toàn cầu. Nhiều nước phải bung ra các giải pháp ứng phó với tình hình lạm phát gia tăng, đặc biệt là giải pháp tài khoá, tiền tệ. Fed liên tục tăng mức lãi suất ở biên độ lớn, các ngân hàng Trung ương của châu Âu và các nền kinh tế lớn đều có động thái tăng mạnh lãi suất để kiềm chế lạm phát. Các giải pháp nêu trên khiến chúng ta phải đối mặt với giảm sút về tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù trong bối cảnh khó khăn, nhưng kết quả điều hành kinh tế vĩ mô và tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, kiểm soát lạm phát của nền kinh tế nước ta vẫn đạt được kết quả đáng khích lệ. Qua nhận xét của các chuyên gia và cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế vĩ mô, điều quan trọng nhất chúng ta đạt được chính là giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát dưới mục tiêu Quốc hội giao, cũng như đảm bảo các cân đối lớn, điều hành giải pháp tiền tệ, tài khoá ở mức hợp lý. Đơn cử như vấn đề tỉ giá, lãi suất, chúng ta có điều chỉnh nhưng ở biên độ phù hợp, không tạo ra các cú sốc lớn với kinh tế vĩ mô.
Bên cạnh đó, chúng ta vẫn phải tiếp tục đối diện với áp lực gia tăng từ bên ngoài và phải tìm cách vượt qua trong thời gian tới, như: Cầu thế giới giảm mạnh; lĩnh vực sản xuất chế biến, chế tạo và một vài lĩnh vực động lực bị ảnh hưởng nặng nề; thiếu đơn hàng, thu hẹp sản xuất… Đó là khó khăn trước mắt chúng ta phải đối diện từ nay đến cuối năm.
Để so sánh với các nước trên thế giới và khu vực, qua các con số tổng hợp – thống kê, bối cảnh vĩ mô của chúng ta vẫn ở mức khá tích cực. Ví dụ như sau khi hết quý I, tốc độ tăng trưởng GDP nước ta đạt 3,32%, trong khi các đối tác chính, nền kinh tế lớn có tốc độ tăng trưởng thấp như Mỹ đạt 1,6%; EU đạt 1,3%; Nhật đạt 1,3%; Hàn Quốc đạt 0,8%. Khi tăng trưởng thấp, cầu tiêu dùng của những nền kinh tế này cũng giảm theo, dẫn tới đơn hàng của doanh nghiệp và sản phẩm đầu ra của chúng ta bị ảnh hưởng. Trong quý I/2023, tăng trưởng của lĩnh vực chế biến, chế tạo giảm đáng kể.
Nhưng mức tăng trưởng 3,32% so với dự báo của World Bank và IMF trong năm 2023 là hơn 2% cho thấy chúng ta vẫn ở mức khá tích cực, tạo tiền đề để phấn đấu trong các tháng cuối năm.
Bên cạnh đó, sau 4 tháng, chúng ta đạt chỉ số lạm phát dưới 4% theo chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Các nền kinh tế khác đều ở mức khá cao như: Singapore (5,5%); Indonesia (khoảng 5%), Eu (khoảng 7%); Mỹ (khoảng 5%). Đây là các nền kinh tế đối tác của chúng ta và họ đều đang chống đỡ với tình trạng lạm phát gia tăng. Với phân tích như vậy, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng vào các chính sách, điều hành của chúng ta từ năm ngoái cũng như đầu năm này để đạt mục tiêu đã đề ra.
Việt Nam đồng là đồng tiền tốt nhất
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cũng nội dung này, xin được lắng nghe ý kiến của TS. Vũ Minh Khương từ Singapore!
TS.Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu: Thế giới kỳ vọng vượt qua đại dịch nhưng không ngờ ngấm sâu vào sức khỏe nền kinh tế, có những cái không phải ngày một ngày hai. Trong khi đó, bối cảnh cuộc chiến Nga-Ukraine khiến tình hình quốc tế bất ổn, lạm phát lên cao, lãi suất lên cao chưa từng thấy, các nước đang phải vật lộn. Với bối cảnh đó, cần phải thông cảm với Chính phủ, các địa phương, các DN đang phải vật lộn quyết liệt. Nhưng đáng mừng là Việt Nam đang thể hiện bản lĩnh tốt. Bên ngoài nhìn vào Việt Nam hiện như con tàu chòng chành thế nhưng có sự chèo lái vững vàng, hệ số tín nhiệm cải thiện, thu chi ngân sách tốt, lạm phát kiểm soát chặt chẽ so với nhiều nước.
Tăng trưởng thế giới nhìn vào là điểm sáng, dù IMF dự báo Việt Nam năm nay tăng trưởng 5,8%, nhưng dự đoán năm sau khá cao. Họ vẫn kỳ vọng cao vào tương lai của Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn háo hức muốn vào Việt Nam, kỳ vọng Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị mới.
Nhìn ra bên ngoài, giống như Việt Nam, Singapore có tỉ lệ thương mại cao gấp mấy lần GDP. Quý I, GDP Singapore tăng 0,1%. Tăng trưởng của Mỹ khi điều chỉnh vừa rồi xuống còn 1,1%, tức là dấu hiệu còn khó khăn trước khi trở lại thuận lợi.
Điều tôi muốn nhấn mạnh là, khó khăn rõ ràng tạo ra tâm lý ức chế cho DN. Nhìn vào sự thật, không phải do điều hành của Chính phủ, mà là mô hình kinh tế bắt đầu bộc lộ áp lực lớn phải đổi thay.
Ví dụ xuất khẩu tôm, thủy sản giảm, cạnh tranh quốc tế tăng. Tôi đi các nước giảng bài hay nói về kinh nghiệm của Việt Nam đầu tiên. Bangladesh, Ấn Độ xuất khẩu 7 tỷ USD, muốn lên 15 tỷ USD nên họ nắm bắt rất nhanh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Còn ta vẫn chỉ cải thiện môi trường kinh doanh, chưa có đột phá cơ bản. Đây là điều ta phải chú ý, đến lúc phải nhìn nhận lại căn bản về nâng cao mô hình tăng trưởng thời gian tới.
Đáng mừng là các địa phương có sự trưởng thành nhanh chóng, có hoài bão lớn đóng góp cho hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam phồn vinh vào 2045. Lãnh đạo các địa phương như TPHCM, Hải Phòng đều rất lắng nghe, mong muốn học hỏi kinh nghiệm của các nước để áp dụng vào phát triển đất nước.
Ta đang bước vào giai đoạn mới tăng trưởng, đòi hỏi đột phá mới về tư duy cũng như ý thức xây dựng quốc gia hiện đại trong 2-3 thập kỷ tới.
TS. Vũ Minh Khương (ảnh chụp qua màn hình): Các nhà đầu tư nước ngoài vẫn háo hức muốn vào Việt Nam, kỳ vọng Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị mới - Ảnh: VGP/Quang Thương |
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: TS. Vũ Minh Khương đã có phân tích cụ thể các giải pháp, thành tựu đã đạt được góp phần quan trọng giải tỏa yếu tố tâm lý này. Xin hỏi TS. Khương, ông nhìn nhận, đánh giá thế nào về nỗ lực, các biện pháp ứng phó của Việt Nam để ổn định kinh tế vĩ mô?
TS.Vũ Minh Khương: Ứng đáp của Việt Nam rất nhạy bén, tôi đặc biệt đánh giá cao nỗ lực của NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp các nhà đầu tư quốc tế yên tâm.
Họ nói khả năng ứng đáp cũng Việt Nam khá tốt, Việt Nam đồng là đồng tiền tốt nhất, các đồng tiền khác đều mất giá. Tất nhiên ổn định đồng tiền có thể khiến các DN xuất khẩu gặp khó khăn, nhưng mừng là các thặng dư vãng lai tốt, thu hút FDI tốt, hoạt động xuất khẩu khá tốt... Về vĩ mô là tốt, thúc đẩy đầu tư công, các công trình cao tốc, dự án đã được Chính phủ triển khai quyết liệt, khi khó khăn là tháo gỡ ngay.
Còn về vấn đề điện, cần sự đồng hành mạnh mẽ của khu vực DNNN. Khu vực này chưa có biện pháp thỏa đáng, cần giải quyết ngay, dồn toàn lực giải quyết. Ví dụ vấn đề điện tái tạo dù chưa chuẩn nhưng đúng hướng, cần giải quyết, không để tình trạng thiếu điện...
Bức tranh tổng thể ứng đáp chung là đúng, tốt, nhưng hệ sinh thái ứng đáp với thách thức vượt ngoài khả năng bộ, ngành cụ thể hay Chính phủ, mà đòi hỏi cả hệ thống chính trị, bao gồm cả các DN, cùng bàn thảo để giải quyết bài toàn lớn.
Kinh nghiệm của Singapore là phải có hội đồng định hình chiến lược thời gian tới, quy rõ trách nhiệm, phối thuộc chặt chẽ, để tạo đà vượt lên, tạo lòng tin cho xã hội. Nhiều vấn đề phải bàn nhưng những cái đang làm đáng trân trọng và đang đi đúng hướng.
Giữ được ổn định kinh tế vĩ mô là thành công lớn nhất
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: TS. Vũ Minh Khương đã đánh giá khá tích cực những giải pháp mà chúng ta đã ổn định được kinh tế vĩ mô và vẫn thúc đẩy tăng trưởng được. TS. Vũ Minh Khương có băn khoăn về vấn đề điện. Tôi nghĩ vừa qua Chính phủ đã có những quyết sách rất kịp thời tháo gỡ để điện mặt trời, điện gió…
Cũng câu hỏi tương tự xin được hỏi TS. Hoàng Văn Cường, ông đánh giá như thế nào về các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô để bảo đảm cho tăng trưởng thời gian vừa qua của ta?
GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội, Phó Hiệu trưởng ĐH Kinh tế Quốc dân - Ảnh: VGP/Quang Thương |
GS.TS Hoàng Văn Cường: Tôi rất đồng tình với ý kiến đánh giá của Thứ trưởng Trần Quốc Phương về tình hình kinh tế vĩ mô cũng như ý kiến của TS. Vũ Minh Khương. Quả thật chúng ta nhìn thấy trong bối cảnh thế giới có những cơn sóng chao đảo như vấn đề lạm phát, sụt giảm tăng trưởng, Việt Nam giữ được ổn định kinh tế vĩ mô là thành công lớn nhất để chúng ta tạo được sự ổn định rất nhiều mặt, kể cả đời sống người dân, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chúng ta không phải trả giá cho việc khôi phục lại các cân bằng. Để thành công được, có nhiều giải pháp Chính phủ đã điều hành nhưng tôi nghĩ trên 3 góc độ:
Thứ nhất, ổn định vĩ mô rất thành công. Tôi cho rằng việc điều hành chính sách tài khóa của Chính phủ đã ứng phó rất kịp thời, phù hợp và hiệu quả. Chúng ta thấy, trong bối cảnh dịch, rất nhiều nước cũng dùng chính sách tài khóa để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân, nhưng hậu quả kéo theo sau dịch là lạm phát. Nhưng Việt Nam vẫn hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, cũng dùng tài khóa nhưng không bị rơi vào lạm phát, vẫn giảm được gánh nặng cho doanh nghiệp, như giảm thuế, giãn, hoãn các khoản đóng góp. Ngay với người dân, có những chỗ chúng ta hỗ trợ trực tiếp bằng tiền, có những chỗ chúng ta hỗ trợ bằng phương tiện vật chất. Hay chúng ta cũng nhìn thấy những vấn đề liên quan tới điều hành chính sách thu chi. Trong bối cảnh khó khăn như thế, đương nhiên nguồn thu có xu hướng bị sụt giảm, nhất là chúng ta lại miễn, giãn, hoãn các khoản thu. Nhưng thực tế 2 năm qua, năm 2021 và 2022, thu đều vượt qua dự báo rất nhiều, thể hiện ở chỗ chúng ta tranh thủ cơ hội để khai thác được nguồn thu để bù đắp cho phần giãn, hoãn, chậm nộp của doanh nghiệp. Chính từ việc làm tốt nguồn thu như thế dẫn tới cán cân thanh toán của chúng ta luôn thấp hơn mức bội chi Chính phủ giao. Chính vì thế, nợ công giảm xuống rất thấp, trước đây có thời kỳ trên 50%, nếu tính theo GDP mới thì năm 2021 xuống 42% và 2022 chỉ còn hơn 38%. Đây là dư địa rất tốt để chúng ta tiếp tục sử dụng những chính sách tài khóa này. Đấy là thành công và cho thấy chúng ta rất khéo léo, hiệu quả trong sử dụng tài khóa.
Về tiền tệ cũng thế, như TS. Vũ Minh Khương nói, chúng ta là nước duy trì được giá đồng tiền ổn định nhất, tốt nhất. Tỉ giá của chúng ta không phải cứng nhắc, có sự điều chỉnh, thay đổi linh hoạt nhưng cũng chỉ biến động quanh khung 23,5-24,5 và cuối cùng quay lại đúng mức tỉ giá ổn định, từ đó tạo ra giá trị đồng tiền ổn định, giúp doanh nghiệp yên tâm sản xuất kinh doanh, không sợ đồng tiền mất giá, gây hoang mang, tích trữ… Tôi cho rằng đấy là những yếu tố thể hiện sự thành công của chúng ta, cả thế giới lạm phát cao như thế, chúng ta duy trì được, nhất là nền kinh tế của chúng ta mở, khi giá đồng tiền các nước tăng cao, đồng tiền của chúng ta nguy cơ mất giá là rất cao. Ngay gần đây, trong năm 2022 và những tháng gần đây, trong khi thế giới dự báo lạm phát có xu hướng chậm lại, các ngân hàng lớn của các nước hầu như chưa có động thái giảm lãi suất điều hành, nhưng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã 3 lần giảm lãi suất điều hành, nhằm đưa mặt bằng lãi suất thấp xuống, giúp cho doanh nghiệp có nguồn lực. Đây là hành động quyết liệt trong bối cảnh hiện nay và cũng cương quyết. Chúng tôi đã nghe thấy, lần thứ ba Thống đốc chỉ thị: Các NHTM không giảm thì có thể xem xét tới room tín dụng sau này… Tất nhiên chúng ta phải hết sức thận trọng trong bối cảnh thế giới còn nhiều khó khăn.
Thứ ba, về công tác điều hành, tôi cho rằng, công tác điều hành giữa Chính phủ, Quốc hội có sự tương tác, hỗ trợ đồng hành rất rõ, gần như là các chính sách ra đời luôn có sự hỗ trợ đồng hành và tương tác nhanh chóng. Những gì cần cho cuộc sống thì chúng ta có khuôn khổ pháp lý để thực thi, và khi có rồi thì hành động của Chính phủ rất quyết liệt trong bối cảnh khó khăn. Trong năm qua, có rất nhiều chỉ thị của Chính phủ để giải quyết ách tắc, thậm chí lãnh đạo Chính phủ có nhiều cuộc thị sát tới tận địa bàn. Nhiều cuộc họp mà tôi thấy rất hay là giao thời hạn phải xử lý xong việc, rất rõ cho địa phương là đến thời kỳ này phải giải quyết xong. Tôi nghĩ rằng khi đã đặt ra yêu cầu có tính định lượng, thời hạn cũng thể hiện quyết tâm, quyết liệt rất tốt của Chính phủ.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Những đánh giá của TS. Hoàng Văn Cường cho thấy giải quyết vừa qua là rất đúng hướng và tích cực. Nhưng sắp tới còn rất khó khăn, anh nói một ý rất quan trọng là sự đồng hành của Quốc hội với Chính phủ là nền tảng rất quan trọng, bởi cơ quan phê duyệt nếu không có đồng hành thì khó. Theo anh, tới nữa giải pháp mà chúng ta phải rất để ý và thúc đẩy là gì?
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Đúng là chúng ta vẫn đứng trước bối cảnh thế giới nhiều biến động hết sức khó lường, dự báo lạm phát của thế giới có xu hướng giảm nhưng chưa biết thực sự là hết chưa. Đặc biệt chúng ta thấy gần đây, một loạt ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng, thậm chí có ngân hàng phá sản, phải bán lại. Đó là một lo ngại ảnh hưởng tới hệ thống tài chính. Nếu sự kiện này xảy ra, nó tạo ra sự lan tỏa của hệ thống thì nguy cơ cảnh báo về suy thoái kinh tế thế giới, thậm chí rơi vào khủng hoảng, không phải là không có cơ sở. Hơn nữa, bối cảnh về khủng hoảng địa chính trị cũng chưa nhìn rõ hồi kết, tạo ra đứt gãy, xung đột về mặt kinh tế thế giới. Bối cảnh thế giới là hết sức bất định và có nhiều rủi ro. Vậy chính sách trong nước làm sao ứng phó?
Về chính sách tiền tệ, chúng ta đang rất quyết liệt. Tôi nghĩ, chúng ta là một trong những ngân hàng đi tiên phong điều hành để giảm lãi suất sớm giúp nguồn lực cho doanh nghiệp. Nhưng cũng cần hết sức thận trọng vì nếu bối cảnh thế giới diễn ra xấu, thì chúng ta cũng cần có năng lực để đối phó. Vừa qua có sự cố ngân hàng SCB nhưng chúng ta đã xử lý rất kịp thời. Chúng ta phải luôn luôn trong tình trạng đó. Chính vì vậy, đối với chính sách tiền tệ, tôi cho rằng vẫn phải tiếp tục sử dụng cơ chế tiền tệ linh hoạt nhưng phải thận trọng và phải kiểm soát được dòng tiền. Nếu trong bối cảnh hiện nay, nhiều doanh nghiệp khó khăn, có nhu cầu mà chúng ta không kiểm soát được dòng tiền, để dòng tiền không chảy vào đúng chỗ đang cần sản xuất kinh doanh tạo ra của cải đưa ra thị trường, thanh khoản ngay, mà rơi vào khu vực đang đóng băng, đang thiếu tiền, nợ đọng thì gần như là ném tiền vào hố đen, đem muối bỏ biển, có khi chỉ làm hao hụt nguồn lực của tài chính.
Về tài khóa, chúng ta đang có dư địa khá tốt để thực hiện chính sách tài khóa. Tôi đánh giá cao là thời gian vừa qua, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa hỗ trợ, như quyết định ngay việc giãn, hoãn các khoản đóng góp, tiền thuế, tiền thuê… và vừa qua đã đề xuất Quốc hội giảm tiếp thuế VAT 2%. Tôi nghĩ rằng đây là những biện pháp rất kịp thời. Thậm chí, VAT hiện nay đang đề xuất giảm tiếp đến hết 31/12. Đúng 31/12 là thời điểm chúng ta phải thực hiện chốt về cân đối ngân sách, nhưng theo chính sách tôi cho rằng nên mở. Đến 31/12, nếu diễn biến có phức tạp, còn khó khăn, Chính phủ tiếp tục đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua thì chúng ta kéo dài được ngay, không cần chờ tới kỳ họp tháng 5. Tôi nghĩ rằng phải chủ động các chính sách hỗ trợ, thậm chí một số chính sách về tài khóa hỗ trợ mạnh hơn nữa. Chúng ta thấy, hiện nay ngân hàng điều hành giảm lãi suất bằng các công cụ điều hành về tiền tệ nhưng tôi nghĩ rằng, việc chúng ta dùng tài khóa phối hợp với tiền tệ bằng việc hỗ trợ lãi suất hết sức hiệu quả. Nếu chúng ta tăng được phần hỗ trợ lãi suất thì chúng ta cũng sẽ hướng đúng dòng vốn vào những đối tượng đang cần hỗ trợ, như vậy sẽ tăng được cơ hội cho rất nhiều doanh nghiệp.
Ngoài ra, những chính sách khác nữa như TS. Vũ Minh Khương nói là các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay cũng đang gặp khó khăn thì có thể một mặt điều hành chính sách tỉ giá, nhưng ngay cả thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhóm này. Hoặc hiện có xu thế các doanh nghiệp sa thải người lao động bởi ít đơn hàng mà chi phí cho người lao động cao, chúng ta phải tính tới các chính sách hỗ trợ xã hội hay chính sách giãn hoãn nghĩa vụ đóng góp BHXH để giảm gánh nặng. Về mặt tài khóa tôi cho rằng cũng là yếu tố rất quan trọng.
Điểm cuối cùng tôi rất tâm đắc với TS. Vũ Minh Khương nói là chúng ta phải thay đổi tư duy, hành động, đặc biệt là đánh giá cao hành động của một số lãnh đạo địa phương. Có lẽ trong bối cảnh hiện nay, mấu chốt nằm ở đó. Nghĩa là phải tháo được nút thắt về mặt thể chế để khơi thông nguồn lực. Trong bối cảnh thế giới chưa phục hồi, thị trường thế giới còn đang hấp thụ yếu thì chúng ta phải khơi thông nguồn lực để tăng năng lực nội địa ở trong nước. Hiện nay, tôi cho rằng các nút thắt này đang diễn ra khá phổ biến, cho nên tình trạng đầu tư công giải ngân không nhanh được mặc dù chúng ta thúc đẩy mạnh; hay gói Nghị quyết 43 về vốn phục hồi kinh tế cho tới thời điểm này chưa giải ngân được nhiều, vẫn vướng vào những cơ chế chính sách. Tôi cho rằng cần gỡ vướng về thể chế chính sách thì mới giải phóng được nguồn lực để tăng nội lực lên.
Việt Nam là nước có tầm trong định hướng phát triển tương lai của thế giới
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: GS.TS. Hoàng Văn Cường đã nêu rất rõ các giải pháp bây giờ để chúng ta tiếp tục thúc đẩy, gồm cả chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, rồi hỗ trợ doanh nghiệp, tháo gỡ các vướng mắc về thể chế, ách tắc. Xin được nghe ý kiến của TS. Vũ Minh Khương!
TS. Vũ Minh Khương khuyến nghị phải chuyển từ thu hút đầu tư bị động sang chủ động gắn kết với các đại doanh nghiệp của thế giới |
TS. Vũ Minh Khương: GS. Hoàng Văn Cường đã trình bày rất toàn diện và sâu sắc. Tôi muốn nhấn mạnh 3 điểm.
Khi nói về chuẩn bị cho các cú sốc bên ngoài thì với một nền kinh tế phát triển như chúng ta thì cũng cần chuẩn bị cho các cú sốc bên trong. Chúng ta có thể có những cú sốc, những khủng hoảng cục bộ ở đâu đó, doanh nghiệp này, ngân hàng kia, nên cũng phải sẵn sàng, chứ không phải chỉ bên ngoài. Đấy là bài toán mà thế giới họ cũng phải định hướng rõ, đó là tạo ra những buffer (lớp đệm) để thẩm thấu những gì có thể xảy ra. Ví dụ như trái phiếu vỡ nợ thì giải quyết như thế nào? Nói cách khác là thế nào cũng có người đi cấp cứu thì cứu chữa như thế nào? Cần khu trú tất cả những vấn đề không ảnh hưởng tới tâm tý mọi người. Anh nào làm tốt vẫn tiến lên, còn anh nào ngã xuống là có cứu thương chữa ngay. Đấy là chuẩn bị tình huống.
Cái thứ hai quan trọng hơn, nền tảng hơn là móng của chúng ta đang khá vững. Đây là ưu việt của chúng ta. Nước ngoài nhìn vào Việt Nam thấy nền chính trị rất vững, tâm thế của người dân vững vàng, lạc quan, hệ thống chính trị tốt. Chính phủ điều hành bài bản, quyết liệt. Đấy là cái rất đáng mừng. Làm sao chúng ta duy trì được đoàn kết, gắn bó trong toàn dân để mọi việc thực sự trên dưới một lòng, đưa đất nước đi đến ổn dịnh. Quốc hội đang họp và nên gửi ra những thông điệp như thế để thể hiện sự nhất quán rất là cao trong hệ thống chính trị của chúng ta, đưa đất nước đi đến phồn vinh. Chúng ta chỉ còn hơn 25 năm nữa thôi, rất là ngắn.
Điểm thứ ba tôi nghĩ là quan trọng nhất và cũng là điểm thách thức nhất. Đó là chúng ta phải nhận thức thế giới đã đổi thay, có những cái không chỉ là bất thường, mà là không thể tưởng tượng được nó có thể xảy ra, sẽ xảy ra. Bên cạnh đó, có những xu thế thay đổi ghê gớm, như ChatGPT. Tôi dạy học sinh cũng phải đổi mới căn bản luôn, tức là bây giờ yêu cầu ChatGPT làm như thế nào thì anh phải làm hay hơn thì mới được điểm cao. Tức là trí tuệ nhân tạo phát triển rất nhanh. Hay là kinh tế xanh. Ví dụ như Philippines xác định có 178 GW ngoài khơi, bây giờ thu hút đầu tư như thế nào, sản xuất ra halogen hay điện. Ta có một mảng lớn trên Biển Đông vừa để bảo vệ chủ quyền vừa sản xuất. Cần khảo sát xem năng lượng, nguồn lực bao nhiêu để thu hút đầu tư nước ngoài. Như Singapore, ví dụ thu hút đầu tư các trung tâm dữ liệu mà không có năng lượng xanh là họ không đồng ý đầu tư. Lấy ở đâu ra cũng là cả vấn đề. Nhưng Việt Nam thì có điều kiện như thế, cho nên năng lượng xanh chúng ta phải tốt hơn nữa. Tôi cảm nhận thấy, nhiều bộ phận trong hệ sinh thái của chúng ta giờ chưa bắt nhạy với kinh tế xanh thật tốt. Cái này là bắt kịp xu thế.
Hợp tác quốc tế của chúng ta tôi cho là tuyệt vời. Chuyến đi của Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Thượng đỉnh G7 vừa rồi ở Nhật Bản được đánh giá rất cao. Nước ngoài họ nhìn vào, nước ta tham dự và có phát biểu rất xác đáng, đi vào lòng người. Như vậy hợp tác quốc tế của chúng ta không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế nữa mà rõ ràng là cả tham gia vào hệ thống ổn định của thế giới như một thành viên rất có trách nhiệm và có tầm. Việt Nam là nước có tầm trong định hướng phát triển tương lai của thế giới, làm sao để thúc đẩy được hòa bình, hữu nghị và phồn vinh.
Tôi muốn nhấn mạnh và quay trở lại mô hình kinh tế mà anh Cường cũng thống nhất với tôi là: Rõ ràng phải đổi mới mô hình, từ việc nhân lực rẻ trở thành nhân lực cao như thế nào là một bài toán tất cả các địa phương phải suy nghĩ đến. Hiện giờ là "chúng tôi có nhân lực rẻ, đất rẻ, cứ vào đây" là không được. Phải là nhân lực cao.
Hai là chúng ta nghĩ tháo gỡ môi trường kinh doanh cho đỡ khó khăn, tức là đỡ quấy nhiễu doanh nghiệp, đã là tốt rồi. Không phải! Giờ chúng ta phải xây dựng nền tảng của một nền kinh tế hiện đại. Chúng ta phải nhanh chóng vượt qua giai đoạn giảm phiền hà, và từ chỗ giảm phiền hà chuyển thành đội quân tinh nhuệ yểm trợ cho các doanh nghiệp tiến lên. Làm sao Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hay Bộ Tài chính gửi đội quân tinh nhuệ xuống các địa phương, địa phương nào muốn đột phá, chúng tôi yểm trợ ngay. Tôi thấy cán bộ của các anh rất xuất sắc và tâm huyết, các Bộ trưởng, Thứ trưởng cũng rất tuyệt vời. Nhưng cần làm sao để tạo thành động lực. Chúng ta có năng lực nhưng chưa có hệ thống động lực tốt để làm hết lòng. Ông Park Hang-seo nói với tôi, bí quyết của ông để đem lại thành công cho đội bóng Việt Nam là tạo ra cái cộng hưởng. Việt Nam chưa tạo ra được sức mạnh tổng lực.
Điểm thứ ba trong nắm bắt xu thế là chúng ta phải chuyển từ thu hút đầu tư bị động sang chủ động gắn kết với các đại doanh nghiệp của thế giới để chuẩn bị cho tương lai, như kinh nghiệm của Singapore. Cần học xem chiến lược tương lai của họ như thế nào, Việt Nam định vị ra sao để giúp họ tiến lên. Trong thời gian tới, chúng ta chủ động không chờ đại bàng đến nữa mà thực sự sát cánh cùng đại bàng để giải quyết nhiều vấn đề. Đây là bài toán mà tôi nghĩ là chúng ta phải có chuyển động rất lớn trong thời gian tới, phải thực sự biến nguồn lực trở thành thực lực chiến lược. Có nguồn lực mà đổ vào những cái không chuẩn thì dễ vướng bẫy thu nhập trung bình, tức là chỉ biến thuận lợi thành khó khăn. Bẫy thu nhập trung bình thật ra đơn giản tức là có thuận lợi nhưng không biết dùng nó để biến thành thành quả lớn mà khiến nó thành khó khăn cho doanh nghiệp. Đấy là những cái mà chúng ta hết sức chú ý trong việc tăng sự ứng đáp hệ sinh thái kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Vấn đề ai cũng thấy quan trọng là lạm phát. Thời gian vừa qua, Việt Nam đã khống chế lạm phát rất tốt. Nhưng nếu để lạm phát phát sinh, sau này chi phí để ổn định lạm phát sẽ rất khó khăn, mất thời gian, công sức. Việc khống chế lạm phát rất quan trọng, vậy thời gian tới chúng ta cần định hướng như thế nào để giữ được ổn định vĩ mô, đặc biệt là khống chế lạm phát? Xin mời Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi: Chính sách tài khóa trong những năm vừa qua chính là điểm tựa, bệ đỡ cho chúng ta thực hiện các nhiệm vụ vĩ mô khác - Ảnh: VGP/Quang Thương |
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi: Nói về vấn đề ổn định các cân đối vĩ mô và những kết quả đạt được trong thời gian vừa qua, cá nhân tôi hoàn toàn đồng tình với những ý kiến đánh giá, phân tích, nhận định của TS. Vũ Minh Khương, TS. Hoàng Văn Cường, Thứ trưởng Trần Quốc Phương.
Tôi xin được nhấn mạnh thêm một khía cạnh đóng vai trò rất quan trọng, giúp cho đất nước, kinh tế, chính phủ đạt được những kết quả vừa qua trong điều hành kinh tế vĩ mô. Đó là sự phối kết hợp trong các chính sách khi điều hành kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn trong chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Có thể thấy khi chúng ta cần kiểm soát lạm phát, chúng ta phải thực hiện nhiều giải pháp liên quan đến chính sách tiền tệ để giữ lạm phát ở mức mục tiêu hoặc dưới mức mục tiêu.
Để thúc đẩy hỗ trợ cho nền kinh tế, chúng ta phải giải quyết bằng chính sách tài khóa mở rộng như các chính sách mà anh Cường đã nêu. Đó là giãn hoãn thuế, giảm thuế, giảm tiền thuê đất, nhiều sắc thuế… cho doanh nghiệp, cho người dân. Rồi chúng ta tăng cường, mở rộng đầu tư công, đầu tư vào hạ tầng, hệ thống đường cao tốc và các hạ tầng khác. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giải quyết các vấn đề về đại dịch. Làm thế nào để hai chính sách này vẫn đạt được mục tiêu thì tôi cho rằng thành quả của Chính phủ đã đạt được trong thời gian vừa qua là rất tuyệt vời. Đứng từ góc độ Bộ Tài chính là cơ quan tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội và cho Đảng về chính sách tài khóa, tôi đánh giá chính sách tài khóa trong những năm vừa qua chính là điểm tựa, bệ đỡ cho chúng ta thực hiện các nhiệm vụ vĩ mô khác. Anh Cường cũng đã nói chúng ta vẫn còn dư địa, và chúng ta vẫn đang tiếp tục sử dụng nó.
Cập nhật về tình hình tài khóa, kết quả năm 2021-2022 đã được công bố công khai. Kết quả năm 2022, thu ngân sách nhà nước vẫn đạt được như dự toán, mặc dù có giảm so với cùng kỳ, nhưng mức giảm không nhiều. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục báo cáo với Chính phủ và thực thi các giải pháp để bảo đảm thu đúng, thu đủ và đạt được các mục tiêu của chính sách tài khóa. An ninh tài chính quốc gia, nợ công thì như anh Cường vừa phản ánh, thậm chí chúng ta còn giảm mức nợ công xuống. Điều này là điểm rất sáng và chúng ta phải luôn ý thức trong phối hợp giữa các chính sách vĩ mô khác nhau, đặc biệt là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Với mục tiêu kiểm soát lạm phát mà anh Dũng vừa nói, để đạt được điều đó tôi cho rằng hai chính sách này cần gắn kết với nhau. Nếu chúng ta làm cho tài khóa thâm hụt, Nhà nước phải tiếp tục ra thị trường vay mượn nhiều hơn thì lãi suất có thể tăng lên. Lãi suất tăng thì lãi suất trái phiếu Chính phủ phải tăng, sẽ tác động đến toàn bộ hệ thống lãi suất, vì lãi suất chính phủ là lãi suất nền. Cho nên dựa trên kinh nghiệm và kết quả thời gian vừa qua, chúng ta cần hết sức lưu ý hài hòa các chính sách. Khi hài hòa được các chính sách thì chúng ta sẽ đạt được các kết quả mong muốn, trong đó có việc kiểm soát lạm phát.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cảm ơn Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi! Rõ ràng việc hài hòa giữa các chính sách cũng là một giải pháp để ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và kiểm soát lạm phát. Xin được nghe ý kiến của Thứ trưởng Trần Quốc Phương về lạm phát và tác động của nó lên phát triển kinh tế!
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương: Về tầm quan trọng của lạm phát, chúng ta có thể nhìn nhận một cách dễ dàng, cả ở khía cạnh lý luận lẫn khía cạnh thực tiễn. Tôi xin phép không nói về lý luận, trong các môn học về kinh tế học và kinh tế vĩ mô đã nêu rất rõ. Báo cáo với thầy Cường, trong trường chúng ta đã giảng rất nhiều rồi. Nhưng về thực tiễn tôi xin nhấn mạnh 2 ý.
Trong quá khứ, chúng ta cũng từng chứng kiến những lúc phải gánh chịu hậu quả của lạm phát cao như những năm 80, 90 của thế kỷ trước hay là giai đoạn 2008-2011 với sự tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Với tác động của lạm phát như vậy, đúng như vấn đề đã đặt ra là chúng ta sẽ mất rất nhiều thời gian cũng như nguồn lực để khắc phục được hậu quả của nó, cũng như là quay trở lại trạng thái phát triển kinh tế tốt. Hậu quả để lại rất nặng nề, tăng trưởng bị suy giảm, thậm chí là suy thoái, cho đến đời sống của người dân bị ảnh hưởng rất nhiều, rồi thất nghiệp, đói nghèo, kể cả việc phá hoạt tài nguyên môi trường. Tất cả những hệ lụy đó chúng ta có thể phân tích được do lạm phát gây ra.
Thực tiễn thứ hai tôi cũng rất muốn nhấn mạnh là hiện nay như chúng ta đã biết, xã hội rất quan tâm đến vấn đề lạm phát. Người dân cũng đã hiểu được rằng lạm phát đánh thẳng vào nồi cơm của gia đình họ, đánh thẳng vào túi tiền của họ. Do vậy, họ rất quan tâm đến vấn đề làm sao kiểm soát lạm phát, vì một khi lạm phát gia tăng, câu chuyện cuộc sống bị đảo lộn, chi tiêu, chi phí tăng lên rất nhiều và sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống. Chính vì lẽ đó mà tầm quan trọng của việc kiểm soát lạm phát ngày càng được đặt ở vị trí trọng tâm cao hơn.
Một ý nữa tôi xin được bổ sung là kết quả kiểm soát lạm phát của chúng ta trong thời gian qua rất đáng ghi nhận, đặc biệt là trong chính sách điều hành kiểm soát giá, v.v… Tuy nhiên, vẫn có dư luận cho rằng với kết quả làm tốt như vậy thì liệu có phải do câu chuyện số liệu của chúng ta hay không? Với góc độ chức năng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cơ quan Tổng cục Thống kê là cơ quan tổng hợp và công bố số liệu về lạm phát, chúng tôi xin khẳng định một lần nữa số liệu tính toán và công bố về chỉ số lạm phát của Việt Nam chúng ta là hoàn toàn đáng tin cậy và được quốc tế đánh giá.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng:Khi lạm phát được kéo về mức thấp, trong phạm vi Quốc hội cho phép thì trong chỉ đạo, điều hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ưu tiên hơn cho mục tiêu tăng trưởng. Ông Hoàng Văn Cường đánh giá như thế nào về điều này?
GS.TS. Hoàng Văn Cường; Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi; Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Quang Thương |
GS.TS.Hoàng Văn Cường: Đúng là kiềm chế lạm phát của chúng ta thời gian qua là tốt. Nhưng có một vấn đề cần quan tâm vì kiểm soát lạm phát phải đi đôi với hạn chế nguồn lực bơm ra thị trường, ví dụ như tiền tệ. Nếu chúng ta quá lo ngại lạm phát, tiếp tục thắt chặt đồng tiền, hạn chế cung vốn cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp không có nguồn lực để sản xuất kinh doanh. Trên thế giới, áp lực lạm phát đã giảm nhưng xu hướng các ngân hàng trung ương lớn đang chậm dần việc tăng lãi suất điều hành. Rõ ràng, áp lực lạm phát thế giới vào Việt Nam ít nhưng áp lực suy thoái thì cao hơn, đáng lo ngại hơn. Nếu chúng ta không hành động sớm, chờ lúc suy thoái rồi mới bơm tiền vào cứu trợ thì khó phục hồi. "Cơ thể" mà quá yếu thì thêm thuốc bổ cũng không phục hồi được.
Hiện nay, thành công kiểm soát lạm phát là tốt nhưng thực tế thị trường thế giới thu hẹp sau 2 năm đại dịch, hàng hoá khó tiêu thụ, không có đơn hàng nên doanh nghiệp khó khăn. Tôi mới đọc thông tin trên báo về khảo sát 10.000 doanh nghiệp, tỉ lệ doanh nghiệp khó khăn và phải cắt giảm lao động là trên 80%, khoảng hơn 20% phải cắt giảm 1 nửa, hơn 50% rất cần hỗ trợ về vốn. Rõ ràng, thị trường đang khó, nguồn vốn ứ đọng nếu không bán được hàng.
Trong tương lai, thế giới có thể có hai xu thế: Một là suy thoái, khủng hoảng; hai là bắt đầu có tín hiệu phục hồi. Nếu chờ phục hồi rồi mới sản xuất là "chậm chân". Nên phải tính trước các "bài" để ứng phó. Vì vậy, đây là thời kỳ phải tăng thêm nguồn lực cho doanh nghiệp. Nguồn vốn cho doanh nghiệp hiện nay dựa vào hai nguồn: Thị trường trái phiếu và thị trường khá truyền thống là hệ thống cấp vốn từ các ngân hàng tín dụng.
Chúng ta tính đến chuyện cân bằng các chính sách kiểm soát lạm phát (nới lỏng tiền tệ), chuyển hướng hỗ trợ nguồn vốn cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, để tạo tăng trưởng, công ăn việc làm. Mục tiêu của chúng ta không phải là tăng trưởng để tạo của cải, công ăn việc làm, người dân có thu nhập, cải thiện đời sống. Doanh nghiệp hoạt động ổn định trở lại sẽ giúp duy trì cân bằng kinh tế vĩ mô. Tôi cho rằng chuyển hướng của Chính phủ trong giai đoạn này là phải tập trung cho tăng trưởng, không phải như năm trước là ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Ý kiến của GS. Hoàng Văn Cường là ta cần chuyển động thúc đẩy tăng trưởng. Xin được nghe ý kiến TS. Vũ Minh Khương. Quan sát các nước trên thế giới và trong khu vực, ông đánh giá như thế nào về tình hình Việt Nam so với các nước khác?
TS. Vũ Minh Khương: Tôi có một thử nghiệm thú vị, đi xe taxi từ nhà ra sân bay Nội Bài, rồi từ sân bay trở về. Giá rất ổn định, không lên dù giá xăng dầu lên, lái xe vẫn lịch thiệp, không có phàn nàn gì về giá. Đó một thử nghiệm cảm nhận cuộc sống. Tất nhiên, có mặt hàng đâu đó tăng nhưng cơ bản giá taxi cũng như các mặt hàng tiêu dùng đều không có biến động quá cao.
Về khảo sát của GS. Cường, cũng cần lưu ý là những DN biến động nhiều tỉ lệ có ý kiến cao hơn, DN ít biến động không có thời gian nêu ý kiến nhiều. Hiện các DN có thể "đau đầu" nghiêm trọng, nhưng có thể vấn đề không nghiêm trọng đến mức đó. Chúng ta cần thêm khảo sát khoa học hơn, ví dụ chọn khảo sát 10.000 DN là rất tốt, nhưng vấn đề là mẫu chọn thế nào. Thường DN bị ảnh hưởng nhiều sẽ tham gia đông đảo hơn, nên có thể tạo ra bức tranh tương đối "xám". Vẫn cần các khảo sát bổ sung.
Về vấn đề tăng trưởng, cần nắm bắt xu thế thời đại, ví dụ xe điện, điện xanh… Cần làm sao có thể gấp đôi sản lượng, công suất điện trong thời gian tới, nếu khai thác năng lượng gió, năng lượng mặt trời vô tận.
Huy động vốn này không mất công sức quá, vì lãi suất cho chuyển đổi xanh chỉ 3%, hay thấp hơn mức thông thường. Cơ bản Quy hoạch điện VIII rất kịp thời, hay. Làm sao để Việt Nam thành điểm sáng chói về năng lượng tái tạo, chuyển đổi xanh, hiện thực hóa cam kết phát thải ròng = 0 của Thủ tướng Chính phủ tại COP26 càng sớm càng tốt. Cả hệ thống cần vào cuộc. Việt Nam phải cải thiện, tháo gỡ cho các DN Việt Nam vượt lên trong thời gian tới.
Kinh nghiệm Hàn Quốc, Ireland, Singapore chú trọng hỗ trợ chiến lược DN. Không nên nghĩ DN cứ có thị trường là giỏi. Nếu không có tư vấn, họ đi chưa chắc đã đúng hướng. Ví dụ xuất khẩu tôm, DN Việt Nam luôn muốn mở rộng xuất nhiều hơn, không nghĩ đến tăng giá trị gia tăng cao hơn, giảm xuất nhưng hàm lượng giá trị cao hơn. Với các thị trường cao cấp như châu Âu, Mỹ, cần tính toán kỹ hơn, nhất là thời gian tới phải đương đầu với sự cạnh tranh đến từ các nước như Ấn Độ, Bangladesh…
Thứ hai là vấn đề lao động trình độ cao hơn. Lương họ đủ chưa, bao giờ nâng từ 10 triệu lên 15 triệu/tháng? Đây là vấn đề cấp bách, nếu không không thể đi được xa.
Thứ ba là vấn đề đổi mới sáng tạo công nghệ.
Đây là các bài toán cần sự sát cánh của các bộ ngành, địa phương, Chính phủ...
Ta chưa chú trọng tham vấn chuyên gia, tham vấn người thụ hưởng chính sách. Tôi mong Chính phủ, Quốc hội làm sao mỗi chính sách thời gian tới đưa ra, người dân cảm thấy phấn chấn, phấn khởi hơn là ức chế, khó chịu, sốc...
Ngoài ra, các kết quả vĩ mô thực hiện khá tốt nhưng đưa ra thông tin tuyên truyền chưa thật tốt. Truyền thông kết quả vĩ mô chưa tốt, để mảng đen nhiều hơn. Cái này cũng dễ hiểu về người ta quan tâm những quan ngại hằng ngày. Chúng ta cần nhận dạng và trình bày rõ hơn, để xã hội nhận thấy rõ hơn.
Đây là bài toàn chung của cả xã hội, không chỉ Quốc hội, Chính phủ; bài toán tổng hợp, bài toán đổi mới mô hình tăng trưởng toàn diện, không chỉ đơn thuần đổi mới, bỏ tập tính cũ, chuẩn bị tập tính mới... Ta đã có 40 năm đổi mới rồi, cần những đột phá trong thời gian tới.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: TS. Vũ Minh Khương có lưu ý rằng truyền thông thời gian qua chưa đạt yêu cầu, làm cho nhiều khi mặt trái át những mặt được. Thời gian tới cần cải thiện khâu này.
Thưa GS. Hoàng Văn Cường, thị trường trái phiếu doanh nghiệp là kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp để phát triển sản xuất kinh doanh. Xin hỏi GS. Hoàng Văn Cường, ông đánh giá sức khỏe thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện giờ như thế nào?
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Chúng ta thấy trái phiếu DN là một thị trường vốn rất quan trọng cho DN. Trong năm 2021 và quý đầu đầu năm 2022, chúng ta chứng kiến thị trường TPDN rất sôi động. Tuy nhiên, sang đầu năm 2022, khi có sự cố một số DN rơi vào khủng hoảng pháp lý, nhiều nhà đầu tư nhận thấy rủi ro. Rủi ro đó, một phần chúng ta nhìn thấy rất rõ là bản thân DN phát hành trái phiếu không được kiểm soát, dẫn đến tình trạng phát hành nguồn tiền không có cơ sở, những yếu tố để bảo đảm cho giá trị trái phiếu. Nhưng cũng có yếu tố là bản thân nhà đầu tư. Trái phiếu đó phần lớn là trái phiếu phát hành riêng lẻ, theo quy định của luật pháp thì chỉ dành cho đối tượng là những người đầu tư chuyên nghiệp hoặc nhà đầu tư tổ chức. Nhưng trên thực tế, phần lớn nhà đầu tư cá nhân mua trái phiếu với suy nghĩ rằng giống như gửi ngân hàng.
Khi xảy ra sự cố như thế, thị trường TPDN rơi vào khó khăn. Khó khăn thứ nhất, là huy động của phát hành trái phiếu mới giảm đi. Thậm chí nhiều DN năng lực khá tốt nhưng vì tâm lý của nhà đầu tư mà phát hành giảm sút.
Khó khăn thứ hai là nhiều khoản trái phiếu chưa đến hạn đáo hạn mà nhà dầu tư đã muốn rút. Rồi có nhiều DN năng lực yếu cho nên đến thời kỳ là phải đáo hạn trái phiếu, bây giờ không phát hành được các lô mới lại không có nguồn để đáo hạn. Đó là yếu tố tạo ra rủi ro và tạo ra sức ép lớn cho nhiều DN… Có lẽ tôi nghĩ rằng trong giai đoạn này là giai đoạn khá khó khăn cho thị trường trái phiếu.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng:Thị trường chứng khoán, trái phiếu trong năm 2022 có nhiều khó khăn một phần từ việc lãi suất ngân hàng tăng, niềm tin của nhà đầu tư và thanh khoản thị trường trong nước giảm, tâm lý thận trọng của nhà đầu tư trước những bất ổn và triển vọng kém tích cực về tình hình thế giới. Riêng thị trường TPDN còn bị ảnh hưởng bởi niềm tin của nhà đầu tư do các sai phạm của một số doanh nghiệp vừa bị xử lý… Trước những khó khăn của thị trường, xin Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi cho biết Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chức năng đã triển khai các biện pháo gì để tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN?
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương và Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi - Ảnh: VGP/Quang Thương |
Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi: Tôi hoàn toàn đồng tình với những đánh giá và nhận định của GS. Hoàng Văn Cường về tình hình thị trường TPDN của chúng ta hiện nay. Tôi cho rằng chúng ta rất may mắn được chứng kiến sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán chung, trong đó thì có thị trường TPDN. TPDN chậm và ngắn hơn, nó bắt đầu cho việc các doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư quan tâm và sử dụng thị trường TPDN để doanh nghiệp huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh, còn nhà đầu tư có vốn thì chuyển cho người cần vốn là các doanh nghiệp. Giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp chia sẻ hài hòa lợi ích thông qua lãi suất, rồi các cam kết giữa doanh nghiệp ban hành và nhà đầu tư.
Chúng ta thấy thị trường TPDN bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ 2019 đến những tháng đầu năm 2022 và đã nhanh chóng đạt được quy mô ngót nghét 1,2 triệu tỷ đồng, theo số dư đến 31/12/2022. Chúng ta cũng thấy rằng, từ chủ trương, đường lối của Đảng đến các quyết sách của Chính phủ là phát triển thị trường TPDN ổn định, bền vững, minh bạch và không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Chúng ta đã thực thi việc này thông qua hệ thống các quy định của pháp luật. Và thị trường khi phát triển đã đem lại tác dụng như việc dẫn vốn. Nhưng bên cạnh đó, nó chia sẻ hoạt động cung ứng vốn cho các doanh nghiệp, cho nền kinh tế, đặc biệt là giúp các tổ chức tín dụng bớt đi gánh nặng về rủi ro kỳ hạn. Tức là các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi của các tổ chức, cá nhân thì ngắn hạn; khi các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn trung và dài hạn hơn mà không có kênh này phát triển thì sử dụng nguồn vốn ngắn hạn kia cũng sẽ có rủi ro kỳ hạn. Thời gian vừa qua, rủi ro kỳ hạn cũng khá nghiêm trọng, đã xảy ra ở cả những thị trường phát triển như Hoa Kỳ, châu Âu… Chắc chắn là chúng ta vẫn phải tiếp tục phát triển nó.
Còn khó khăn của thị trường trong nửa cuối của năm 2022 và cho đến thời điểm gần đây thì chúng ta cũng thấy rất rõ. Nó xuất phát từ khá nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan tác động đến nền kinh tế của Việt Nam và ảnh hưởng đến các chính sách mà chúng ta đã bàn trong nội dung về ổn định kinh tế vĩ mô vừa nói ở trên.
Nó cũng tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động phát hành trái phiếu và sử dụng trái phiếu cũng chỉ là hoạt động của sản xuất kinh doanh, đầu tư vào huy động vốn của doanh nghiệp, nên chắc chắn chịu tác động như thế. Những tác động khó lường như vậy, tác động theo chiều hướng khó khăn như vậy cũng tác động đến doanh nghiệp phát hành và làm cho thị trường trái phiếu của chúng ta gặp những khó khăn.
Bên cạnh đó, phải khẳng định là thị trường của chúng ta rất non trẻ, mới bắt đầu hình thành và chắc chắn các chủ thể trong thị trường này cũng non trẻ cùng với sự hình thành và phát triển đó, kể cả là các doanh nghiệp phát hành, các nhà đầu tư đến bản thân các cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Trong các báo cáo khác nhau, Bộ Tài chính đã có báo cáo khá đầy đủ và cũng đã thông tin với các nhà đầu tư, thông tin với xã hội. Từ đó, nguyên nhân nào dẫn đến thị trường rất khó khăn thì chúng ta phải tìm các giải pháp để giải quyết nguyên nhân đó.
Rõ ràng, chúng ta đang trong tình trạng, bối cảnh là các doanh nghiệp khó khăn và trái phiếu khó khăn. Khi sử dụng rồi thì lẽ ra doanh nghiệp có thể phát hành tiếp để có được dòng tiền trả được các trái chủ khi đến hạn nhưng thị trường khó khăn. Rồi quá trình sản xuất gặp khó khăn, dòng tiền gặp khó khăn và khó khăn cả trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà phát hành.
Từ phân tích nguyên nhân của những khó khăn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong thời gian vừa qua, tôi xin được nêu thì một số giải pháp chính yếu như thế này.
Thứ nhất là chúng ta phải khẳng định rằng ổn định kinh tế vĩ mô, giữ được lãi suất, tỉ giá, lạm phát… Rồi chúng ta điều hành linh hoạt, hiệu quả chính sách tài khóa, tiền tệ, giải quyết các khó khăn. Nếu chúng ta giữ được như hiện nay và tiếp tục quá trình đó thì đó chính là điểm tựa để các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động tốt dần lên và hiệu quả hơn, từ đó quay trở lại phát triển.
Thứ hai là chúng ta phải có những quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến thị trường trái phiếu này. Nó phải được ứng xử một cách linh hoạt và hiệu quả, đáp ứng kịp thời diễn biến thực tiễn. Thời gian vừa qua, Chính phủ cũng đã có các chính sách, ban hành và xử lý giải quyết những yêu cầu bức xúc của thị trường này. Trong một thời gian rất ngắn, Chính phủ ra 2 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP và số 08/2023/NĐ-CP. Những quy định pháp lý mới nhất như vậy đã kịp thời giúp các doanh nghiệp phát hành, rồi nhà đầu tư có điều kiện và công cụ pháp lý, có thời gian để giải quyết những khó khăn trước mắt về dòng tiền, thanh khoản, tài sản đảm bảo, và giải quyết những vấn đề khác liên quan… trên nguyên tắc xuyên suốt là lợi ích hài hòa và rủi ro chia sẻ. Doanh nghiệp phát hành phải chịu trách nhiệm đến cùng với những nghĩa vụ như các cam kết của mình với nhà đầu tư. Nhà nước thì giám sát các doanh nghiệp, giám sát thị trường để đảm bảo việc thực thi các nhiệm vụ theo đúng các quy định của pháp luật. Bản thân các nhà đầu tư cũng phải tôn trọng các quy định của pháp luật để Nhà nước hỗ trợ và giám sát thị trường này minh bạch và đảm bảo hài hòa các quyền lợi, lợi ích của các bên.
Thứ ba, chúng ta nói về những khó khăn hiện tại của các doanh nghiệp phát hành trong các lĩnh vực khác nhau, từ sản xuất kinh doanh đến một khu vực chúng ta nói đến rất nhiều trong thời gian vừa qua là bất động sản và xây dựng. Khi tình hình thị trường bất động sản gặp khó khăn, Chính phủ đã có nhiều giải pháp khác nhau để hỗ trợ và giúp cho các doanh nghiệp phát hành. Chính phủ đã có chính sách giãn nợ, chuyển nhóm nợ của các doanh nghiệp, rồi giảm lãi suất, giãn thuế, giảm thuế… Tôi cho rằng, những giải pháp này là những giải pháp tác động đến thị trường TPDN, hỗ trợ thị trường TPDN tiếp tục ổn định trở lại và phát triển bền vững.
Thứ tư, tôi cho rằng là các cơ quan chức năng của Nhà nước thời gian vừa qua cũng tăng cường giám sát, kiểm tra, thậm chí thanh tra để đảm bảo thị trường này minh bạch và tuân thủ các quy định của pháp luật. Nhưng bên cạnh đó, thông điệp của Chính phủ rất rõ ràng là không hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Doanh nghiệp phải tôn trọng các thỏa thuận của doanh nghiệp phát hành với nhà đầu tư theo quy định của pháp luật và phải thực thi trách nhiệm của mình. Nhà nước đảm bảo việc đó được thực hiện.
Điểm cuối cùng lại nói về truyền thông. Trong suốt hơn 1 năm vừa qua, công tác truyền thông về TPDN, truyền thông chính sách đã làm được, có những bước tiến tốt. Trên cơ sở đó, chúng ta nâng cao nhận thức của tất cả các chủ thể tham gia thị trường, từ doanh nghiệp phát hành, nhà đầu tư, các tổ chức cung cấp dịch vụ và ngay bản thân cơ quan quản lý nhà nước cũng nhận thức một cách đầy đủ hơn, chính xác hơn về thị trường này. Từ đó, người ta thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tốt lên và chính cái đó mới là điều chúng ta đang rất thiếu, đang rất cần nhưng thời gian qua, chúng ta cũng đã làm được.
Tôi cũng đồng tình với ý kiến của TS. Vũ Minh Khương là vẫn phải tiếp tục làm và làm tốt hơn, thậm chí phải đào tạo cho thị trường một bản lĩnh vững vàng. Tất cả các chủ thể khi tham gia thị trường là đón nhận lợi ích và chia sẻ rủi ro, khi đó chúng ta có một thị trường trái phiếu thực sự phát triển ổn định, bền vững. Bên cạnh các kênh dẫn vốn khác, nó sẽ giúp nền kinh tế đồng bộ và phát triển một cách hiệu quả.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Cảm ơn Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi. Ông Chi đã trình bày rất là chi tiết các giải pháp, chính sách của Chính phủ để tháo gỡ khó khăn cho thị trường TPDN.Từ góc nhìn chung của thế giới, xin được nghe ý kiến đánh giá của TS. Vũ Minh Khương. Ông đánh giá thế nào về các giải pháp và phản ứng chính sách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chức năng của Việt Nam trong xử lý khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp?
TS. Vũ Minh Khương: Về phản ứng chính sách của Chính phủ, tôi thấy Chính phủ đã luôn sát cánh cùng doanh nghiệp để tháo gỡ tất cả những khó khăn hiện đang vướng phải. Tôi muốn chú ý hơn nữa về vấn đề tạo nền móng cho tương lai bởi rõ ràng chúng ta nhận thức rõ vai trò của trái phiếu là kênh huy động nguồn vốn đặc biệt quan trọng, không chỉ cho doanh nghiệp mà cả Chính phủ.
Nhìn những quốc gia đã tạo ra những phát triển thần kỳ thì trái phiếu có vai trò rất quan trọng, đến 100% của GDP, trong đó khoảng 50% của doanh nghiệp và 50% của Chính phủ. Chẳng hạn như Hàn Quốc, có đến 18 địa phương phát hành trái phiếu xây dựng đường sắt, tàu điện ngầm, các công trình được xây dựng, phát triển mạnh. Việc đầu tư vào những cái tạo ra giá trị thì chúng ta không tiếc đầu tư, không tiếc sức để vay tiền nếu thực sự có thể tạo ra giá trị. Khi một đồng được đầu tư vào những thứ chuẩn xác, đúng hướng sẽ tạo ra nhiều lời lãi, giúp tăng trưởng rất nhanh, rất thần kỳ. Do đó, tôi nghĩ chúng ta cần đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng hệ sinh thái trái phiếu lành mạnh. Chúng ta phải biến những thách thức thành cơ hội để những ý chí, quyết tâm, nỗ lực của chúng ta trong việc xây dựng nền tảng, hệ thống trái phiếu trở thành đẳng cấp thế giới trong thời gian tới.
Tôi thấy kinh nghiệm thế giới, trái phiếu phát hành 3 loại. Một là phải mua bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm thì dân rất yên tâm mua, vì bảo hiểm đã kiểm tra rất kỹ trình độ trái phiếu ra sao.
Dạng thứ hai là phát hành trái phiếu nhưng có bảo lãnh. Tôi mua miếng đất này, xây dựng công trình tàu điện ngầm kia ra sao, hoàn toàn có bảo lãnh, bảo đảm bằng chính tài sản của mình. Đây cũng là công thức tốt, nghĩa là ta phải tạo ra nền móng rất khoa học.
Loại trái phiếu thứ ba là loại hoàn toàn không có bảo lãnh, không bảo hiểm thì phải ít nhất có hai công ty đánh giá kinh nghiệm, năng lực, thẩm định để giúp người dân yên tâm.
Nhìn những báo cáo quốc tế của Việt Nam vừa rồi phát hành thấy lãi suất quá cao trong bối cảnh đồng tiền Việt Nam ổn định so với USD thì tôi thấy các doanh nghiệp Việt Nam có thể gặp khó. Ví dụ vừa rồi lãi suất 13% so với thế giới là rất cao, như vậy là rất khó. Nếu dùng đòn bẩy quá cao, tức là hầu hết dựa vào trái phiếu, để đầu tư xây dựng thì lại càng khó nữa vì lãi suất cao sẽ dễ làm lỗ. Do đó cần có khảo sát, giúp đỡ họ thật kỹ.
Tôi muốn nói tới 3 tuyến phòng vệ trong vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp để tránh vấn đề hình sự. Tuyến phòng vệ thứ nhất là các lãnh đạo doanh nghiệp khi chuẩn bị cần hiểu thật kỹ về quản trị doanh nghiệp. Tuyến phòng vệ thứ hai là bảo đảm vấn đề pháp lý, phản ứng cứu hộ. Tuyến phòng vệ thứ ba là cần kiểm toán hằng năm đề đánh giá, bởi tình hình kinh tế biến đổi rất nhanh, do đó cần cập nhật các ý kiến kiến nghị thường xuyên, liên tục.
Có thể nhìn thấy, một số quốc gia không chú ý đầu tư nâng cấp hệ sinh thái cho trái phiếu nên khó phát triển, ví dụ như Indonesia hay Philippines vẫn quanh quẩn 30 USD cho doanh nghiệp trái phiếu. Chỉ mức đó thì khó tiến lên được, trong khi ở Hàn Quốc, họ có thể phát hành cả nghìn tỷ USD.
Nói chung, xây dựng một nền tảng cho hệ thống tài chính lành mạnh cho tương lai của Việt Nam là vấn đề rất cấp bách. Tôi tin là Chính phủ nhiệm kỳ này có thể làm được vấn đề đó và coi thách thức hiện giờ chúng ta gặp phải là một quyết tâm chiến lược để Việt Nam để tạo ra một nền móng thật tốt trong thời gian tới.
Những hành động khá kịp thời và bài bản
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: TS. Khương nói vấn đề đó rất quan trọng, liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cả các loại trái phiếu có bảo lãnh, có bảo hiểm, có đánh giá thí điểm, có 3 phòng tuyến bảo vệ, phản ứng cứu hộ, kiểm toán thường xuyên. Tiếp theo, xin được nghe ý kiến của ông Hoàng Văn Cường! Ông đánh giá như thế nào về các giải pháp và nhận xét thêm về ý kiến của TS. Vũ Minh Khương?
GS.TS. Hoàng Văn Cường: Tôi đồng tình với ý kiến anh Khương đã đưa ra. Thị trường trái phiếu không phải là một thị trường mua bán hàng hóa thông thường. Trái phiếu là một thị trường tài chính, đòi hỏi những người tham gia vào đấy phải có năng lực và phải có một môi trường pháp lý để tạo ra một hệ sinh thái như anh Khương nói.
Việc đầu tiên là chúng ta phải có một khuôn khổ pháp lý để quản lý, hỗ trợ, giám sát.
Thứ hai là bản thân những người tham gia thị trường, kể cả những người phát hành trái phiếu như là doanh nghiệp, cũng phải thấy được việc phải tuân thủ ra sao, có thể gặp phải những rủi ro như thế nào? Khách hàng tham gia và mua trên thị trường này cũng phải có được năng lực đó. Tôi cho rằng có lẽ nhiều doanh nghiệp thời gian vừa qua phát hành trái phiếu chưa thực sự hiểu. Nếu người ta biết được phát hành như thế rơi vào vòng lao lý thì có lẽ họ đã không làm. Có lẽ họ chưa am hiểu chuyện đó. Cảnh báo của chúng ta, kiểm soát của chúng ta đúng là chưa kịp thời. Nếu kịp thời chúng ta sẽ ngăn chặn sớm, không để xảy ra tình trạng tràn lan, gây ra hậu quả nghiêm trọng như thế.
Tôi rất đồng tình là khách hàng, nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào thị trường này cũng thực sự chưa am hiểu. Không thể có chuyện lợi nhuận, lãi suất phát hành ra 13, 14, 15%, ngân hàng đang huy động có 6, 7, 8% mà thị trường trái phiếu mười mấy phần trăm như thế. Một quy luật rất rõ là lợi nhuận càng cao thì rủi ro sẽ càng lớn, nên đương nhiên sẽ gặp những vấn đề rủi ro. Khả năng đánh giá rủi ro ra sao, có những thông tin đánh giá hay chưa. Tôi cho rằng tất cả những yếu tố trên đây hoàn toàn đúng.
Đúng là ở Việt Nam, anh Khương có cảnh báo là không cẩn trọng thì rơi vào thị trường như Philippines. Thị trường trái phiếu mà để đổ vỡ không phục hồi được thì đây là một thất bại trong việc huy động các nguồn lực cho phát triển. Nhưng Việt Nam tôi nghĩ cũng không đáng lo ngại như thế vì chúng ta vừa qua có cuộc khủng hoảng trái phiếu, Chính phủ đã có hành động khá kịp thời. Chúng ta ngăn chặn sớm những rủi ro, không để cho tình trạng đó lún sâu nữa. Cho đến nay, chúng ta cũng chưa thấy những trái chủ bị mất trắng trái phiếu. Tôi nghĩ đã có những hành động khá kịp thời và bài bản. Chúng ta ra Nghị định 65 để tăng cường chuẩn hóa phát hành trái phiếu, nhưng sau đó chúng ta nhìn thấy chuẩn hóa ngay lúc này cứng quá, chúng ta lại ra Nghị định 08 để thích nghi dần dần. Đấy là xử lý rất nhanh nhạy để chúng ta thấy rằng không để tình trạng phát hành không có căn cứ, nhưng cũng không thắt quá chặt.
Tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn cần có các biện pháp phản ứng phù hợp hơn, quan trọng nhất là những trái chủ cảm thấy có niềm tin và sẽ không có người nào mất trắng tay. Chẳng hạn chúng ta gia hạn thời gian thanh toán, chuyển đổi từ trái phiếu sang tài sản. Tôi nghĩ cái đấy không phải là mất tiền mà có khi chúng ta lại có thêm cơ hội.
Đặc biệt, chúng ta thấy phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Mong muốn của các nhà đầu tư cá nhân Việt Nam có một đặc điểm rất khác so với nhiều nhà đầu tư cá nhân thế giới. Nhiều nhà đầu tư cá nhân thế giới trên thị trường chứng khoán không hiểu họ đầu tư là đầu tư vào quỹ, đầu tư gián tiếp, nhưng Việt Nam lại rất thích đầu tư trực tiếp, tự mình mua, tự mình cảm nhận được sinh lợi ra sao. Nếu chúng ta chuyển sang các lĩnh vực trái phiếu có khả năng chuyển đổi này, tôi nghĩ đó là một kênh khá tốt để huy động nguồn vốn của từng cá nhân trở thành nguồn vốn của nhà đầu tư.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Mới đây, vào 25/4/2023, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì họp Thường trực Chính phủ với các bộ, ngành về tình hình hoạt động thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Thủ tướng nhấn mạnh điều quan trọng là phải đưa ra các công cụ, cách thức, phương pháp để các doanh nghiệp phát hành trái phiếu có điều kiện, khả năng thanh toán cho các trái chủ theo đúng quy định của pháp luật; tăng cường niềm tin của thị trường. Bộ Tài chính sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp cụ thể nào?
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi và TS. Nguyễn Sĩ Dũng tại Tọa đàm - Ảnh: VGP/Quang Thương |
Thứ trưởng Nguyễn Đức Chi: Tiếp tục định hướng và xây dựng thể chế, có những hành động để thị trường trái phiếu hoạt động trở lại ổn định và phát triển bền vững, tôi cho rằng chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Tôi hoàn toàn đồng tình với TS. Vũ Minh Khương về những tiêu chuẩn của thị trường
Nghị định 65 quy định rất rõ về các tiêu chuẩn. Thứ nhất, nhà đầu tư tham gia vào thị trường phải ký cam kết là đã hiểu tất cả những vấn đề liên quan đến trái phiếu mà họ tham gia đầu tư và chấp nhận rủi ro khi quyết định đầu tư.
Bên cạnh đó, Nghị định 65 cũng quy định định kỳ 6 tháng, doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có báo cáo được kiểm toán bởi một cơ quan kiểm toán độc lập, xác nhận tiền thu được từ trái phiếu sử dụng vào mục đích đã công bố với nhà đầu tư. Đây là quy định phù hợp, rõ ràng, đảm bảo sự minh bạch của doanh nghiệp phát hành với cơ quan quản lý Nhà nước và các nhà đầu tư.
Ngoài ra, các tiêu chuẩn của trái phiếu, các hình thức có thể phát hành như bằng bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh từ bên thứ ba, bằng tài sản đảm bảo đã được quy định rõ từ Nghị định 153.
Về xác lập hệ số tín nhiệm, trong Nghị định 65 nêu rõ doanh nghiệp phát hành phải có đánh giá hệ số tín nhiệm từ một bên cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, đúng như ông Cường nói, đánh giá về tình hình cụ thể cung cấp dịch này của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì vậy, Nghị định 08 đã tạm thời cho ngưng quy định này trước mắt là đến 31/12/2023.
Có thể nói, phản ứng chính sách và quyết đáp của Chính phủ rất linh hoạt, trên cơ sở căn cứ vào tính khoa học, nguyên tắc, quy chuẩn và yêu cầu thực tiễn hiện nay, để đưa ra các quy định nêu trên.
Tôi xin chia sẻ là từ khi Nghị định 08 được ban hành ngày 5/3/2023, chúng ta đã có 15 doanh nghiệp phát hành được khối lượng là 26,4 nghìn tỷ trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường. Trong khi giai đoạn trước đó, cuối năm 2022 và 2 tháng đầu năm 2023, hầu như không có doanh nghiệp nào phát hành được trái phiếu ra thị trường.
Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy tác động chính sách giúp các doanh nghiệp và các nhà đầu tư có niềm tin và bắt đầu quay trở lại thị trường.
Ở một khía cạnh khác, sau khi Nghị định 08 ra đời, nhiều doanh nghiệp đã đàm phán thành công với các nhà đầu tư trong xử lý vướng mắc về quá trình thanh khoản, dòng tiền khi trái phiếu đến hạn. Theo báo cáo của Sở Giao dịch chứng khoán, có 16 doanh nghiệp đàm phán thành công để giải quyết khối lượng trái phiếu gần 8 nghìn tỷ đồng (7,9 nghìn tỷ đồng). Tôi có thể kể ra một số doanh nghiệp phát hành lớn như: Tập đoàn địa ốc Bulova, Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai, Công ty cổ phần Hưng Thịnh Land…
Nhờ có quy định mới của Chính phủ, các doanh nghiệp cùng với nhà đầu tư đã thực hiện được các phần việc như đàm phán, gia hạn, chuyển đổi thành tài sản,… thành công.
Một điểm nữa tôi muốn nhắc đến là Nghị định 08 cho phép ngưng thi hành điều kiện mới về các nhà đầu tư chuyên nghiệp và xếp hạng trái phiếu hết năm 2023. Quy định này được đánh giá là giúp cho doanh nghiệp, nhà đầu tư đáp ứng các điều kiện, quy chuẩn của Nghị định 65. Nếu không, chúng ta áp dụng ngay thì gây sốc, giật cục, có khả năng không những khiến thị trường không tốt lên mà còn xấu đi.
Sau khi có Nghị định 65 và Nghị định 98, nhận thức, ý thức của các chủ thể tham gia thị trường tốt lên rất nhiều, hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình khi tham gia thị trường hơn. Các tổ chức phát hành, cung cấp dịch vụ chấp hành nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư.
Như vậy, với những quy định mới của Chính phủ, chúng ta đã đạt kết quả bước đầu rất tích cực. Trong thời gian tới, thị trường sẽ có những điều chỉnh và bắt đầu đi lên một cách bền vững.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng: Có lẽ chúng ta kết thúc cuộc toạ đàm hôm nay với một điểm tích cực là thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang phục hồi, có nền tảng bền vững để phát triển. Trong thời lượng gần 120 phút của chương trình, chúng ta đã trao đổi nội dụng về ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Các diễn giả đều khẳng định mạch lạc và chắc chắn là chúng ta đã giữ được ổn định kinh tế vĩ mô – thành tựu lớn nhất, đáng ghi nhận nhất, nền tảng quan trọng nhất để phát triển kinh tế. Các chuyên gia đã so sánh trong bối cảnh chung của thế giới, thành tựu chúng ta đạt được là tích cực và chúng ta cần truyền thông đúng đắn để thấy hết những nỗ lực, cố gắng để củng cố niềm tin trong doanh nghiệp.
Đặc biệt, chúng ta đã bàn về khó khăn của thị trường chứng khoán với những giải pháp rất kịp thời của Chính phủ. Nghị định 65 tạo nền tảng cơ bản để phát triển thị trường trái phiếu lành mạnh, phát triển theo chuẩn chung của quốc tế. Cùng với đó là phản ứng chính sách kịp thời, uyển chuyển của Nghị định 08. Những phản ứng nhanh nhậy đó đã bắt đầu đưa đến kết quả rõ ràng như 26,4 nghìn tỷ trái phiếu doanh nghiệp đã được phát hành.
Xin trân trọng cảm ơn các vị khách mời đã tham gia chương trình./.