Bộ Công Thương đang lấy ý kiến Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo và Nghị định 01/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP.
HẠN CHẾ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA THAM GIA VÀO THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO
Trong đó, Dự thảo (sửa đổi Điều 4.2 Nghị định 107/2018/NĐ-CP) quy định thương nhân xuất khẩu gạo phải sở hữu kho chứa thóc, gạo. Như vậy, doanh nghiệp sẽ không được phép thuê kho chứa thóc, gạo như quy định hiện hành.
Góp ý về vấn đề này, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng mục tiêu chính của điều kiện về kho chứa là nhằm nắm được thông tin về năng lực vận hành của doanh nghiệp, và kho đó được sử dụng để dự trữ thóc gạo. Việc doanh nghiệp sở hữu hay đi thuê đều có thể đạt được mục tiêu này. Do vậy, miễn doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu về năng lực, việc thuê hay sở hữu kho là quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với nguyên tắc của nền kinh tế thị trường.
Cơ quan soạn thảo cho rằng có tình trạng thương nhân thuê kho chứa, cơ sở xay, xát thóc gạo chỉ để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, không quan tâm đến duy trì kho chứa. Theo VCCI, trường hợp này nằm ở việc không thực hiện đúng điều kiện kinh doanh chứ không phải nằm ở bản thân quy định.
Trong trường hợp này, Nhà nước có thể thu hồi giấy phép của doanh nghiệp đó do không đáp ứng điều kiện kinh doanh. "Như vậy, quy định như Dự thảo mang tư duy “không quản được thì cấm” mà Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã yêu cầu xóa bỏ", VCCI nhấn mạnh.
Mặt khác, quy định này gia tăng đáng kể chi phí gia nhập thị trường cho các doanh nghiệp mới và các doanh nghiệp nhỏ. Việc yêu cầu đầu tư xây dựng hoặc mua kho chứa sẽ gây áp lực tài chính lớn, hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vào thị trường xuất khẩu gạo.
Quy định như vậy sẽ hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu gạo, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân, tính bền vững của chuỗi giá trị lúa gạo.
Cơ quan soạn thảo cho rằng thương nhân thuê kho không phải đầu tư chi phí ban đầu xây dựng giúp giá thành cạnh tranh hơn các thương nhân sở hữu kho. Trong khi đó, theo phản ánh của doanh nghiệp, nhận định này không đúng. Các thương nhân thuê kho phải chi trả tiền thuê kho – một loại chi phí kinh doanh hợp pháp, và phải tính vào cấu thành giá sản phẩm.
Hơn nữa, việc giá thành của doanh nghiệp này cạnh tranh hơn doanh nghiệp khác, nếu không có yếu tố cạnh tranh không lành mạnh, là điều bình thường trong nền kinh tế thị trường mà Nhà nước không nên can thiệp. Do vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.
GIA TĂNG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP THỊ TRƯỜNG
Mặt khác, dự thảo quy định thương nhân mới phải đảm bảo dự trữ tối thiểu 1.250 tấn gạo sau 45 ngày được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, và duy trì cho đến khi có thành tích xuất khẩu gạo.
VCCI cho rằng quy định này sẽ gia tăng đáng kể điều kiện gia nhập thị trường với các doanh nghiệp mới. VCCI phân tích trong giai đoạn chưa ký được hợp đồng xuất khẩu, yêu cầu phải nhập và dự trữ một lượng lớn gạo sẽ khiến doanh nghiệp phải huy động vốn lớn, chịu chi phí lưu kho, bảo quản, từ đó gia tăng chi phí không cần thiết. Điều này còn chưa kể đến doanh nghiệp dễ bị động trong hoạt động thu mua lúa gạo dữ trữ do khó khăn trong việc xác định thời gian cấp giấy phép.
Đồng thời, cơ quan soạn thảo cho rằng chỉ khi thương nhân ký hợp đồng xuất khẩu mới thu mua có thể dẫn đến tình trạng cạnh tranh để mua hàng, ảnh hưởng đến giá gạo nội địa. Tuy nhiên, quy định chỉ áp dụng với thương nhân mới nên tác động đến thị trường là không đáng kể.
Cùng với đó, cơ quan soạn thảo cho rằng vào thời điểm thu hoạch, thương nhân chưa tổ chức thu mua do chưa ký kết hợp đồng với đối tác, ảnh hưởng đến lợi nhuận của người nông dân. Quy định này không rõ tồn tại chỉ ở các thương nhân mới hay phần lớn các thương nhân xuất khẩu gạo. Nếu chỉ xuất hiện ở các thương nhân mới thì tình trạng này không đáng ngại do tỷ lệ không lớn, người nông dân vẫn có thể bán cho các thương nhân khác. Nếu xuất hiện ở phần lớn thương nhân, quy định này không giải quyết được vấn đề. Trước các phân tích trên, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.
Ngoài ra, Dự thảo bổ sung thu hồi giấy phép trong trường hợp Bộ không nhận báo cáo về duy trì mức dự trữ lưu thông sau 45 ngày kể từ khi có văn bản đôn đốc. Theo VCCI, việc cơ quan quản lý yêu cầu doanh nghiệp cung cấp số liệu để phục vụ việc điều hành là hoàn toàn thỏa đáng và cần thiết. Tuy nhiên, việc thu hồi giấy phép khi doanh nghiệp không báo cáo là quá nặng so với tính chất của hành vi vi phạm.
Vì về bản chất, hành vi này là hành vi vi phạm hành chính, do đó chỉ nên xử phạt vi phạm hành chính, trong trường hợp cần thiết có thể sử dụng mức phạt cao. Việc thu hồi giấy phép chỉ nên áp dụng với các trường hợp không đáp ứng điều kiện kinh doanh, không còn đủ tư cách thực hiện kinh doanh. Chính vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo thay đổi quy định này.