Nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đã và đang có những động thái tích cực nhằm chuyển sang mô hình kinh tế carbon thấp, coi kinh doanh xanh là chiến lược cạnh tranh.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ triển khai chuyển đổi xanh tại phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chưa chuyển biến rõ nét, còn nhiều hạn chế, nút thắt. Mặc dù nhận thức về lợi ích, tầm quan trọng của chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp đang gia tăng, nhưng việc triển khai trên thực tế vẫn còn khoảng cách giữa nhận thức và hành động, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
“SỨC NÓNG” VÀ ÁP LỰC CHUYỂN ĐỔI XANH
Tại tọa đàm về chuyển đổi xanh mới đây, TS. Nguyễn Quốc Việt, giảng viên Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, khẳng định rằng với các doanh nghiệp Việt Nam chuyển đổi xanh không chỉ là vấn đề nhìn nhận, do dự mà là bắt buộc vào cuộc, phải thích ứng chuyển đổi. Nói cách khác đây là cuộc đua của tất cả các doanh nghiệp.
“Đây không phải cuộc đua cạnh tranh lẫn nhau trong nền kinh tế thị trường, mà với một tính chất mới, là cuộc đua tiếp sức giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp khác nhau trong một chuỗi giá trị”, TS. Việt nói.
Cuộc đua tiếp sức chuyển đổi xanh này cũng là cuộc đua xuyên suốt, có những việc có thể làm ngay trong năm nay hoặc trong những năm tới, có những việc cần phân chia lộ trình để tất cả người dân, doanh nghiệp Việt Nam tiếp sức trong giai đoạn từ năm 2030 đến 2045-2050.

Với xu thế chuyển đổi xanh, các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự nhập cuộc ở các ngành, lĩnh vực, từ công nghiệp chế biến, chế tạo đến ngành hàng thực phẩm, dịch vụ…
Thực tế tiếp cận cho thấy, về cơ bản các doanh nghiệp đã nhận thức được yêu cầu và bước đầu tham gia vào quá trình chuyển đổi xanh. Theo chuyên gia này, “việc chuyển đổi xanh, ứng dụng công nghệ mới, bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên, việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh và có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là chuỗi xuất khẩu”.
Không những thế, các doanh nghiệp được hưởng lợi rất lớn nếu thương hiệu, sản phẩm được chứng nhận xanh, vượt qua rào cản phi thuế quan trong các xu thế thương mại đầu tư toàn cầu…
Đối với người dân Việt Nam, khi đạt đến mức thu nhập cao hơn, nhu cầu tiêu dùng cũng sẽ cao hơn, thụ hưởng những sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao, đáp ứng tốt hơn các đòi hỏi về kinh tế xã hội, môi trường.
Ngoài ra, nếu doanh nghiệp biết tận dụng cơ hội, hiểu rõ về cơ chế chính sách và thể chế toàn cầu cũng như ở trong nước sẽ nhận được những hỗ trợ từ phía nhà nước, cộng đồng các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư nước ngoài, được tiếp cận các nguồn lực, vốn, công nghệ của nước ngoài.
Chia sẻ về sức ép chuyển đổi xanh từ thị trường quốc tế với doanh nghiệp, ông Trịnh Đức Kiên, Phó Giám đốc Công ty TNHH Kẻ Gỗ cho biết những năm gần đây, doanh nghiệp cảm nhận rõ “sức nóng”, áp lực yêu cầu chuyển đổi xanh của thị trường.
Yêu cầu về xanh và bền vững hiện không còn là xu hướng mà đã trở thành điều kiện bắt buộc ở nhiều thị trường lớn như châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á và châu Úc. Đặc biệt trong ngành gỗ, những tiêu chuẩn này được áp dụng xuyên suốt toàn bộ chuỗi giá trị sản phẩm, từ nguyên liệu đầu vào đến phương thức sản xuất và sản phẩm hoàn thiện.
Cụ thể, nhiều khách hàng quốc tế yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng nguồn nguyên liệu gỗ có chứng nhận quản lý rừng bền vững, đồng thời phải chứng minh rằng quá trình khai thác không gây phá rừng, mất rừng…
Trong quá trình sản xuất, các tiêu chuẩn cũng được siết chặt với yêu cầu áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường, không phát thải độc hại. Ví dụ như EU đang triển khai Cơ chế Điều chỉnh carbon (CBAM), buộc doanh nghiệp khai báo lượng phát thải khí nhà kính trên mỗi đơn vị sản phẩm.
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG “NÚT THẮT” CHUYỂN ĐỔI XANH
Đánh giá về thực trạng chuyển đổi xanh trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, tại Diễn đàn “Khơi thông nguồn lực cùng doanh nghiệp chuyển đổi xanh” ngày 22/4/2025, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược, nhận xét giai đoạn gần đây đánh dấu sự chuyển biến trong nhận thức của doanh nghiệp về vai trò của chuyển đổi xanh. Một số doanh nghiệp đã tích cực thực hiện chuyển đổi xanh, trách nhiệm đối với môi trường, xã hội và quản trị (ESG) dần được quan tâm hơn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang triển khai thành công các sáng kiến chuyển đổi xanh.
Một số lĩnh vực đã có sự dịch chuyển tích cực. Ngành dệt may dưới áp lực từ khách hàng quốc tế đang ngày càng quan tâm nhiều hơn tới vấn đề chuyển dịch xanh. Nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ xử lý nước thải tuần hoàn, sử dụng sợi tái chế, năng lượng mặt trời và blockchain để truy xuất nguồn gốc xanh. Các dự án năng lượng tái tạo, giao thông xanh, kinh tế tuần hoàn tại TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng... đã thu hút sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân và khối khởi nghiệp sáng tạo.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ triển khai chuyển đổi xanh tại doanh nghiệp Việt còn nhiều hạn chế, còn khoảng cách đáng kể giữa nhận thức và hành động. Mức độ sẵn sàng tham gia còn thấp, chưa thể hiện rõ xu hướng tái cấu trúc mô hình kinh doanh theo hướng bền vững.
Phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, chưa chủ động xây dựng kế hoạch tài chính dài hạn phục vụ cho các mục tiêu phát triển xanh. Đầu tư vào hạ tầng, công nghệ hoặc quy trình thân thiện môi trường thường đòi hỏi chi phí cao, thời gian thu hồi vốn dài và hiệu quả chưa thể hiện rõ trong ngắn hạn…
Thực tế này cũng được các chuyên gia chỉ ra và cho rằng từ nhận thức đến hành động của doanh nghiệp là một quá trình; đồng thời năng lực chuyển đổi tư duy, mô hình kinh doanh, nhân lực quản lý, khả năng tiếp cận công nghệ các doanh nghiệp rất khác nhau…
Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược cho rằng những hạn chế nêu trên bắt nguồn từ nhiều nút thắt của chuyển đổi xanh tại doanh nghiệp.
Theo TS. Minh, rào cản lớn nhất mà các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang gặp phải, đó là vướng mắc về tài chính khi triển khai sáng kiến xanh. Cụ thể, chi phí đầu tư ban đầu cao, các công nghệ phục vụ sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, xử lý chất thải tiên tiến hoặc triển khai năng lượng tái tạo đều đòi hỏi mức chi phí đầu tư lớn so với năng lực tài chính thông thường của doanh nghiệp.
Hiện nay, khoảng 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp nhiều khó khăn về tài chính trong quá trình xanh hóa. Sự thiếu hụt thông tin rõ ràng về chi phí, lợi ích dài hạn của các giải pháp xanh cũng khiến doanh nghiệp khó tính toán hiệu quả đầu tư, dẫn đến tâm lý e ngại khi phải quyết định thay đổi mô hình hiện tại vốn đã ổn định theo lối truyền thống.
Dù Việt Nam đã có một số chương trình tài chính xanh như Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF), Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, các khoản vay từ ADB, WB hoặc hợp phần tín dụng xanh trong một số ngân hàng thương mại, nhưng số doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn tài chính này còn hạn chế. Cụ thể, khoảng 65% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để thực hiện các dự án xanh.
Ngoài ra, vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao và hạn chế trong tiếp cận thông tin và công nghệ mới cũng gây trở ngại. Theo báo cáo khảo sát “Mức độ sẵn sàng và khó khăn của doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh” do Ban Phát triển kinh tế tư nhân thực hiện với hơn 2.734 doanh nghiệp, 46,8% thiếu nhân sự có chuyên môn về giảm phát thải, chuyển đổi xanh, họ không biết tìm nguồn nhân lực ở đâu do giảm phát thải là lĩnh vực mới, đặc thù.
Chuyển đổi xanh gắn liền với việc áp dụng các tiêu chuẩn, công nghệ và mô hình quản trị mới. Nhiều doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu, không có cơ sở dữ liệu tham khảo, không tiếp cận được chuyên gia tư vấn, dẫn đến tình trạng triển khai rời rạc, “chắp vá”, hoặc chỉ làm khi bị yêu cầu bắt buộc từ đối tác.
Chuyên gia này cũng chỉ ra các vấn đề về hành lang pháp lý chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu hướng dẫn cụ thể và đồng nhất, vấn đề rời rạc trong chính sách. Khung pháp lý cụ thể để điều chỉnh hành vi chuyển đổi xanh tại doanh nghiệp vẫn chưa đầy đủ. Việc thiếu các tiêu chuẩn định lượng cụ thể như tiêu chí doanh nghiệp xanh, tiêu chuẩn báo cáo ESG bắt buộc... khiến doanh nghiệp gặp khó trong việc xác định mục tiêu và cách thức triển khai.
Các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 14001 (hệ thống quản lý môi trường), GHG Protocol (tính toán phát thải khí nhà kính), hay bộ nguyên tắc ESG mới chỉ được khuyến khích áp dụng trên cơ sở tự nguyện, chưa được khuyến khích thực hiện gắn với ưu đãi cụ thể. Do đó, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, lúng túng trong việc xác định tiêu chí và lộ trình thực hiện chuyển đổi xanh, không biết bắt đầu từ đâu và như thế nào là “đủ” để được công nhận hoặc hưởng chính sách hỗ trợ.
HOÀN THIỆN HÀNH LANG PHÁP LÝ, THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI XANH
Chuyển từ một nền kinh tế nâu sang kinh tế xanh đòi hỏi thay đổi cả trong tư duy và cách làm, nhằm khai thác tài nguyên hiệu quả hơn và để lại giá trị bền vững cho thế hệ sau. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng sẽ gặp không ít thách thức.
Nhìn nhận vấn đề này, các chuyên gia cho rằng cần giải quyết trước tiên bài toán hiệu quả kinh tế và chi phí đầu tư. Việc chuyển đổi xanh đòi hỏi nguồn vốn lớn để đầu tư vào công nghệ, máy móc và quy trình sản xuất mới. Nếu không có sự hỗ trợ từ chính sách hoặc các nguồn tài chính ưu đãi, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ khó có khả năng thực hiện.
Cùng với đó, tư duy là một trở ngại không nhỏ. Việc chuyển đổi xanh chỉ thực sự hiệu quả khi thấm sâu vào nhận thức của từng doanh nghiệp, từng người lao động. Đây là một quá trình cần sự đồng hành từ các cấp chính quyền, các tổ chức hỗ trợ và chính bản thân doanh nghiệp.

Từ thực tế hoạt động chuyển đổi xanh, ông Kiên khuyến nghị các doanh nghiệp cần nhận thức rõ ràng việc chuyển đổi xanh là trách nhiệm, cơ hội và cũng là yêu cầu từ khách hàng và thị trường. Do đó các doanh nghiệp cần đánh giá lại mô hình kinh doanh để có chuyển đổi tận gốc, từ công nghệ và nguyên liệu, phát triển bền vững chứ không chỉ là quá trình “rửa xanh” hành động đáp ứng ngắn hạn nhu cầu của khách hàng.
Còn theo quan điểm của TS. Việt, điểm mấu chốt là thể chế chính sách phải theo kịp khả năng, nhu cầu chuyển đổi của cả nền kinh tế và của các doanh nghiệp. Ví dụ về quy định tiêu chuẩn xanh, phân loại xanh các ngành nghề, lĩnh vực để ưu tiên đầu tư và cấp tín dụng xanh… vẫn chưa có cơ chế cụ thể.
Các chuyên gia cho rằng việc hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế tài chính, nhất là các chính sách huy động vốn cho chuyển đổi xanh là rất quan trọng. Trước hết cần bắt đầu từ việc phân loại đặc điểm và mô hình của các dự án, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Việc đồng bộ hóa từ Trung ương tới địa phương sẽ tạo hành lang thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các dự án xanh. Đặc biệt, việc phân loại nhu cầu và mô hình doanh nghiệp theo từng ngành hàng, quy mô hoạt động là yếu tố quan trọng để thiết kế chính sách.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh doanh nghiệp cần nhận thức rõ yêu cầu bắt buộc từ thị trường về chuyển đổi xanh. Các doanh nghiệp phải chủ động và có tầm nhìn xa trong việc đổi mới công nghệ. Chính sách thị trường có thể thay đổi bất cứ lúc nào, và nếu không có sự chuẩn bị trước, doanh nghiệp sẽ rơi vào thế bị động. Việc đầu tư công nghệ đòi hỏi chi phí lớn, nhưng nếu không chuyển đổi sớm, doanh nghiệp có thể mất đi cơ hội cạnh tranh.
Để chuyển đổi xanh thành công, điều quan trọng trước hết từ nhận thức phải coi chuyển đổi xanh là một hành trình. Doanh nghiệp cần phải nhận thức chuyển đổi xanh sớm sẽ gặt hái thành quả tương lai, tạo được lợi thế cạnh tranh, góp phần vào chiến lược chuyển đổi xanh. Chuyển đổi xanh sẽ tốn kém chi phí nhưng những hiệu quả mang lại trong tương lai sẽ lớn hơn rất nhiều.
Tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP 26), Việt Nam đã cam kết mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Cùng với mục tiêu phát triển kinh tế số, kinh tế xanh là một trong các ưu tiên tại Việt Nam.
"Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050” và “Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030” đã đặt ra các mục tiêu: giảm thiểu cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP với mức giảm tối thiểu so với năm 2014 là 15% vào năm 2030 và 30% vào năm 2050; chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn…
Hiện nay, dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các tiêu chí môi trường, xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh cũng đang được khẩn trương hoàn thiện. Quyết định nhằm cụ thể hóa quy định trong Luật Bảo vệ môi trường về tín dụng xanh, trái phiếu xanh đối với các dự án trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; đồng thời bổ sung tiêu chí đối với các dự án sản xuất xanh theo yêu cầu của các thị trường. Tại quyết định này sẽ ban hành các tiêu chí xác nhận một dự án đầu tư thế nào được coi là dự án xanh; quy trình thẩm định, đánh giá và cấp giấy xác nhận dự án xanh để chủ dự án đầu tư có thể sử dụng để tiếp cận tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh...
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 17+18-2025 phát hành ngày 28/4/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/tap-chi-kinh-te-viet-nam/detail/1374
