
Cô Lê Thị Phương bên người con bị bệnh não, gắn liền với nhiều kỷ niệm trên mảnh đất tranh chấp - Ảnh: THANH HUYỀN
Những
Cô Lê Thị Phương bên người con bị bệnh não, gắn liền với nhiều kỷ niệm trên mảnh đất tranh chấp - Ảnh: THANH HUYỀN
Những
Những căn nhà mọc san sát ven lộ: có người có giấy chứng nhận, có người không, có người bị kiện, có người vẫn sinh sống ổn định
Từ giấy chứng nhận đến 5 bản án
Ngày 4-9-2020, TAND huyện Đầm Dơi (cũ) mở phiên sơ thẩm vụ án tranh chấp đất giữa ông Nguyễn Phước H. (đại diện bà B.) với nhóm giáo viên.
Tòa nhận định lời khai của các bên không thống nhất. Diện tích đất bà Phương sử dụng đo đạc thực tế là 105,6m²; ông Quyết và bà Vân sử dụng 52,2m², tọa lạc tại khóm 4, thị trấn Đầm Dơi. Tuy nhiên UBND huyện Đầm Dơi đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B. từ ngày 6-10-2003, bao gồm cả diện tích này.
Theo báo cáo của Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện, khoảng năm 1983-1984 địa phương đào con kênh rộng khoảng 8 đến 15m (tùy đoạn), dài từ bến giao thông (Chi cục Thuế) đến bến thủy sản Đầm Dơi. Đất đào lên được đắp lộ, tạo thành con kênh. Đến năm 1989, khi trường học chuyển về khu vực, UBND thị trấn đã phân chia cho giáo viên dựng nhà trên kênh. Suốt từ đó đến năm 2000, không ai khiếu nại.
Chính vì vậy, tòa sơ thẩm lần đầu đã nhận xét việc cấp giấy chứng nhận cho bà B. là chưa hợp pháp vì đất đang tranh chấp. Bản án này còn kiến nghị thu hồi giấy đã cấp cho bà B. và cho phép các giáo viên kê khai đăng ký đất theo quy định.
Thế nhưng ba bản án sau đó lại đi theo hướng khác: hội đồng xét xử cho rằng đất mà các thầy cô đang ở vốn là do gia đình bà B. cho mượn tạm, buộc các giáo viên phải trả giá trị quyền sử dụng đất lên đến hơn 1 tỉ đồng.
Không đồng tình, gia đình các giáo viên đã kháng cáo lên giám đốc thẩm. Tuy nhiên quyết định giám đốc thẩm cho rằng: "Tòa sơ thẩm và phúc thẩm xác định đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà B. là có căn cứ pháp luật", và giao hồ sơ cho TAND huyện Đầm Dơi giải quyết theo trình tự án sơ thẩm lại từ đầu.
Vì sao vụ việc kéo dài?
Theo các giáo viên, nguyên nhân khiến vụ kiện kéo dài là vì nhiều chứng cứ khách quan về nguồn gốc đất chưa được xem xét đầy đủ. Những xác nhận của bí thư Đảng ủy, UBND thị trấn, vợ cố hiệu trưởng, hiệu phó và nhiều đồng nghiệp khác đều khẳng định đây là đất công, không liên quan đến bà B..
Tuy nhiên trong quá trình xét xử, tòa lại dựa nhiều vào lời khai của phía nguyên đơn - vốn là người thân trong gia đình bà B.. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B. năm 2003 cũng có nhiều dấu hiệu vi phạm Luật Đất đai: không công khai đo đạc, hồ sơ thiếu sót, diện tích sai lệch, cấp chồng lấn.
Chính sự bất nhất trong nhận định và việc bỏ qua nhiều chứng cứ khách quan đã khiến vụ việc kéo dài suốt nhiều năm, đến nay vẫn chưa có hồi kết.
Với các giáo viên, nỗi đau không chỉ nằm ở việc phải trả lại mảnh đất đã gắn bó mấy chục năm mà còn là sự tổn thương danh dự. "Cái đau không chỉ là mất đất mà còn là mang tiếng giành giật, trong khi cả đời chúng tôi chỉ biết dạy cho các con sự ngay thẳng, không giành giật những cái gì không thuộc về mình", bà Phương trải lòng.
Các chứng cứ khách quan (xác nhận của bí thư, ủy ban thị trấn, đồng nghiệp...) đều cho rằng đây là đất công, không liên quan bà B. nhưng chưa được xem xét đầy đủ. Tòa dựa vào lời khai thiếu khách quan của bên nguyên - vốn là người thân trong gia đình bà B.. Quy trình cấp đất năm 2003 cho bà B. vi phạm Luật Đất đai: không công khai đo đạc, hồ sơ thiếu sót, diện tích sai lệch, cấp chồng lấn.